Đăng vào: 07:06 NGÀY 04/06/2016 Số lượt xem: 1649
Chị hãy đi bình an
(12.06.2016 – Chúa nhật 11 Mùa Thường niên, năm C)
Lời Chúa: Lc 7,36-50
Một hôm, có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng : "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào : một người tội lỗi !" Đức Giê-su lên tiếng bảo ông : "Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông !" Ông ấy thưa : "Dạ, xin Thầy cứ nói." Đức Giê-su nói : "Một chủ nợ kia có hai con nợ : một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục. Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn ?" Ông Si-môn đáp : "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo : "Ông xét đúng lắm."
Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn : "Ông thấy người phụ nữ này chứ ? Tôi vào nhà ông : nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay : tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít." Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ : "Tội của chị đã được tha rồi." Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng : "Ông này là ai mà lại tha được tội ?" Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ : "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."
Suy Niệm
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Nước Trời đã đến gần
(11.6.2016 – Thứ Bảy – Thánh Barnaba, tông đồ)
Lời Chúa: Mt 7,1-13
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ : "Anh em hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng : Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
"Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ đến với họ ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em."
Suy Niệm
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36).
Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi,
cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Ngoại tình trong lòng
(10.6.2016 – Thứ Sáu Tuần 10 Thường niên)
Lời Chúa: Mt 5, 27-32
Một hôm, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : "Anh em đã nghe Luật dạy rằng : Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi ; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi ; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.
"Luật còn dạy rằng : Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình ; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu,
và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa.
Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê.
Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động,
mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim,
khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt.
Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn.
Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp,
nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài,
nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy.
Thèm muốn này có tính chiếm đoạt.
Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười :
chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17).
Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn như thế,
vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ.
Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là lý tưởng cần nhắm tới.
Các quán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”.
Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô.
Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh dung tục.
Từ cái nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự.
Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối,
từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội.
Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ.
Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm.
Từ mắt đến tim và đến tay : đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ.
Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài.
Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt,
thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời
còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục.
Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt,
vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng.
Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn
mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời.
Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế ?
Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt?
Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do?
Cầu Nguyện
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Muối cho trái đất
(7.6.2016 – Thứ ba Tuần 10 Thường niên)
Lời Chúa: Mt 5, 13-16
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Suy Niệm
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Thiên Chúa viếng thăm dân Người
(05.6.2016 – Chúa nhật Tuần 10 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 7,11-17
Một hôm, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : "Bà đừng khóc nữa !" Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : "Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !" Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người". Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
Suy Niệm
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hằng ghi nhớ trong lòng
(04.6.2016 – Thứ Bảy – Lễ Trái tim vô nhiễm Đức mẹ)
Lời Chúa: Lc 2,41-51
Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người : "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !" Người đáp : "Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?" 50 Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
Suy Niệm
Nếu ai hỏi Mẹ Maria điều gì quý nhất trong đời Mẹ,
hẳn Mẹ sẽ trả lời đó là Giêsu, con của Mẹ.
Người con này Mẹ đã cưu mang, dưỡng dục, và bảo vệ giữ gìn.
Người con này đã đem lại cho Mẹ biết bao niềm vui và hãnh diện.
Nhưng Mẹ cũng chịu nhiều đau khổ vì người con ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay vén mở một chút nỗi đau của Mẹ,
cho thấy một chút trái tim của Mẹ khi sống bên Giêsu.
Cậu Giêsu, mười hai tuổi, cùng với cha mẹ lên Đền thờ mừng lễ Vượt qua.
Kể cũng lạ khi cậu ở lại Giêrusalem mà không báo cho cha mẹ biết.
Hai ông bà đi một ngày đường mới nhận ra mình mất con,
vội vã đi tìm trong đám bà con thân thuộc,
nhưng không thấy, nên trở lại Giêrusalem mà tìm.
Phải qua ba ngày đầy lo âu và nước mắt mới tìm thấy con trong Đền thờ.
Kinh nghiệm mất- tìm kiếm-tìm thấy này thật đau đớn đối với người mẹ.
Mẹ Maria sợ mất con, mất điều rất quý đã được Thiên Chúa trao cho mình.
Nhưng khi thấy con mình ngồi giữa các vị thầy, rất bình an trò chuyện với họ,
thì Mẹ lại sửng sốt, ngỡ ngàng, thay vì vui sướng.
Như vậy là con không bị lạc, nhưng đã cố ý ở lại Đền thờ mà không báo.
Mẹ không nén được một lời trách móc: “Tại sao con làm thế với cha mẹ?
Cha con và mẹ đã khắc khoải tìm con” (c. 48).
Chuyện không ngờ là cậu Giêsu đã đáp lại câu hỏi của Mẹ bằng hai câu hỏi,
đầy vẻ sửng sốt và cũng là một lời trách: “Tại sao cha mẹ lại tìm con?
Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao ?” (c.49).
Cũng có thể hiểu là: cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?
Đức Giêsu, khi lên mười hai tuổi, đã bắt đầu có ý thức mình thuộc về Cha.
Người Cha trên trời này khác với người cha mà Ngài đang chung sống.
Ngài phải ở với và lo việc cho người Cha này, lẽ ra cha mẹ phải biết chuyện đó.
Dĩ nhiên hai ông bà chưng hửng, không hiểu được câu nói của cậu Giêsu (c.50).
Riêng Mẹ Maria có thói quen nghiền ngẫm về các biến cố khó hiểu.
Mẹ giữ kỹ trong trái tim mình những chuyện xảy ra (Lc 2, 19. 51b).
Chúng ta tưởng Mẹ Maria luôn luôn hiểu Con mình, hiểu ngay, hiểu trọn vẹn.
Chúng ta tưởng ai sống thánh thiện thì lúc nào cũng vui, chẳng bao giờ lo sợ.
Nhìn Mẹ Maria, chúng ta hiểu theo Chúa là bước vào một cuộc hành trình.
Có những lúc như đang chơi ú tim với Chúa, mất rồi lại tìm, tìm thấy rồi lại mất.
Chúng ta chẳng bao giờ nắm được Chúa, giữ chặt Chúa trong tay.
Chúa vẫn là Đấng không thể thấu hiểu được, và vẫn làm chúng ta sững sờ.
Mẹ Maria đã chứng kiến Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt (Lc 2, 40),
từ khi sinh ra đến khi mười hai tuổi,
và từ mười hai tuổi đến lúc trưởng thành (Lc 2, 52).
Ngài càng lúc càng ý thức mình thuộc về Cha và ý thức về sứ mạng.
Con của Mẹ là một mầu nhiệm khôn dò mà Mẹ phải tìm hiểu mỗi ngày.
Mẹ để cho Con tự do sống theo Ý Cha, dù điều đó đem lại nhiều đau khổ.
Chuyện mất Con hôm nay chuẩn bị cho việc Con sẽ chia tay Mẹ đi sứ vụ,
và chuẩn bị cho cuộc chia tay kinh hoàng trên thập giá.
Chúng ta cầu cho các bà mẹ đang đau khổ vì con.
Mong sự vâng phục của con cái làm tươi trái tim người mẹ.
Cầu Nguyện,/strong>
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ