Đăng vào: 04:09 NGÀY 07/09/2016 Số lượt xem: 1572
Thiên Chúa viếng thăm dân Người
(13.9.2016 – Thứ Ba Tuần 24 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 7,11-17
Một hôm, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : "Bà đừng khóc nữa !" Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : "Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !" Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người". Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
Suy Niệm
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim.
Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông.
Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain.
Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra.
Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ.
Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết.
Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng,
và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường.
Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết,
dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai.
Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ.
Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa.
Bà đã dự đám tang của người chồng.
Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất.
Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi.
Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ.
Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất.
Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt.
Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13).
Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác.
Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33),
Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34).
Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy:
Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15).
Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết.
Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì.
Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại.
Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn,
chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái.
Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14).
Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh.
Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23).
Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu?
Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác.
Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ,
khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16).
Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44),
Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới.
Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác,
và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Cứ nói một lời
(12.9.2016 – Thứ hai Tuần 24 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 7, 1-10
Một hôm, sau khi đã giảng dạy dân chúng, Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um. Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông.
Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng : "Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho. Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta." Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người : "Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này : 'Đi !' là nó đi ; bảo người kia : 'Đến !' là nó đến ; và bảo người nô lệ của tôi : 'Làm cái này !' là nó làm." Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng : "Tôi nói cho các ông hay : ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế." Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.
Suy Niệm
Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.
Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.
Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,
vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do-thái coi là nhơ uế.
Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,
ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do-thái xin Đức Giêsu đến nhà ông
để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).
Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,
Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).
Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.
Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài
mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,
căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).
Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,
nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).
Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.
Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.
Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).
Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.
Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.
Là một sĩ quan trong quân đội Rôma
ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.
“Tôi bảo người này : “Đi !” là nó đi; bảo người kia : “Đến !” là nó đến;
và bảo người nô lệ của tôi : “Làm cái này !” là nó làm.” (c. 8).
Lệnh được ban ra là phải thi hành.
Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.
Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.
Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.
Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).
Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,
chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.
Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).
Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.
Họ có thể là mẫu mực cho các kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.
Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,
nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,
chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,
chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.
Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững
và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.
“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”
Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.
Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.
Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
NGƯỜI CHA
(11.9.2016 – Chúa nhật 23 Thường niên năm C)
Lời Chúa: Lc 15,1-32
Khi ấy, tất cả các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau : "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này :
"Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.' Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.' Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
Rồi Đức Giê-su nói tiếp : "Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng : 'Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
"Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ : 'Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người : 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
"Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng : 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa ...' Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng : 'Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng.
"Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời : 'Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha : 'Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !'
"Nhưng người cha nói với anh ta : 'Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.'"
Suy Niệm
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu,
ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con,
chấp nhận để con bỏ nhà ra đi,
Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.
Ðấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình
để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do.
Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người,
vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ.
Lòng Cha luôn hướng về con.
Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy.
Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con người.
Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ.
Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu.
Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi.
Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn.
“Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua.
Ðiều quan trọng là hiện tại:
con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra,
như người cha chạy ra để đón đứa con thứ,
như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình ,
nếu có một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo.
Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy.
Quyền uy của người cha là quyền uy của tình yêu,
mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ.
Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha,
vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có.
Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Bà sẽ sinh con trai
(08.9.2016 – Sinh nhật Đức Trinh nữ Maria)

Lời Chúa: Mt 1, 18-23
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.
Suy Niệm
Một bé gái được sinh ra ở ngôi làng Nadarét,
thuộc vùng Galilê, nước Do Thái, cách đây hơn hai mươi thế kỷ.
Trong một xã hội trọng nam khinh nữ, điều ấy đâu có gì là quan trọng!
Nhưng dưới mắt Thiên Chúa, em bé này thật là một kiệt tác,
bởi lẽ tất cả những gì tốt đẹp nhất làm được, thì Ngài đã làm cho em.
Ngay từ khi em còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã chuẩn bị em cho một sứ mạng hết sức lớn lao,
sứ mạng trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của Ngôi Lời nhập thể.
Em bé ấy tên là Maria.
Hôm nay Hội Thánh mừng sinh nhật của Đức Maria.
Ngày bé gái Maria chào đời, Thiên Chúa chan chứa mừng vui và hy vọng.
Maria vừa là quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa cho nhân loại,
vừa là đại diện của nhân loại để đón nhận ơn cứu độ từ trời cao.
Thiên Chúa cần một người mẹ xứng đáng cho Con Một của mình.
Ngài muốn Con của mình được sinh ra từ cung lòng của một phụ nữ,
để Người Con chí thánh ấy thực sự là người trọn vẹn.
Maria được chọn để làm người mẹ ấy, dù chẳng có công chi.
Vì thế ngay từ giây phút đầu tiên, khi thai nhi Maria còn trong bụng mẹ,
Thiên Chúa đã ưu ái ban dồi dào ơn thánh, đã bao bọc em trong tình yêu.
Em được gìn giữ khỏi những vết nhơ của tội nguyên tổ.
Nhưng những ơn siêu phàm của Thiên Chúa không bóp chết tự do,
không cưỡng ép Maria phải chấp nhận một định mệnh có sẵn,
dù Thiên Chúa đã dành cho Maria một chỗ trong chương trình cứu độ.
Bé gái Maria đã lớn lên, đã thành một thiếu nữ, đã đính hôn với Giuse.
Chị Maria đã đi con đường tự nhiên của các thiếu nữ Do Thái.
Ơn Chúa tuy không làm cho Maria mang bề ngoài khác hẳn mọi người,
nhưng vẫn âm thầm hoạt động mãnh liệt nơi tâm hồn của Chị.
Maria đã mềm mại để Thiên Chúa thì thầm với mình về dự định của Ngài.
Dự định ấy có thể làm đảo lộn những gì Chị ước mơ.
Khác với bà Evà, Chị tự nguyện buông đời mình để Chúa sử dụng.
Cả tình yêu và hôn nhân với Giuse, bây giờ cũng mang ý nghĩa mới.
Maria tin tưởng để Thiên Chúa dắt mình đi vào những lối chưa tường.
Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng.
Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa,
được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội.
Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét.
Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình.
Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria.
Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy.
Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha,
và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng.
Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta.
Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới.
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Phúc cho anh em là những người nghèo
(07.9.2016 – Thứ tư Tuần 23 Thường niên)
Lời Chúa: Lc 6,20-26
Bấy giờ, Đức Giê-su dừng lại ở một chỗ đất bằng. Nơi đây có đông đảo dân chúng tìm đến với Người. Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói :
"Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó,
vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
"Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,
vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
"Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
vì anh em sẽ được vui cười.
"Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. "Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
"Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế."
Suy Niệm
Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được.
Một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo.
Một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch.
Một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao…
Một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.
Giữa cuộc sống khó khăn,
vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền.
Họ chọn sống trong cảnh nghèo,
lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.
Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng:
“Phúc cho anh em là những người nghèo khó,
Vì Nước Trời là của anh em”.
Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn
từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt.
Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác,
với lối đánh giá khác, làm chúng ta ngỡ ngàng.
Ngài cho các môn đệ của Ngài biết rằng:
họ là những người có phúc,
khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Ngài.
Nước Trời đã thuộc về họ từ đây,
và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết.
Đức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta.
Ngài là một người thợ thủ công nghèo,
Ngài biết đến sự dày vò của cơn đói,
Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem,
và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết.
Nhưng Đức Giêsu là con người hạnh phúc,
vì biết mình luôn sống cho Cha và con người.
Chúng ta cần có kinh nghiệm của Đức Giêsu:
Nghèo của cải mà thật giàu Nước Thiên Chúa.
Đức Giêsu chúc phúc cho những môn đệ nghèo của Ngài,
nhưng Ngài không ca ngợi sự bần cùng, lạc hậu.
Cả cuộc đời Ngài là một hành vi cúi xuống
để nâng dậy những ai nghèo sức khoẻ, nghèo niềm vui.
Hôm nay Ngài muốn chúng ta
đến với khu lao động, với lớp học tình thương,
xóa đi cái nghèo tri thức, nghèo những ước mơ cao cả.
Sự no đủ và niềm vui phải bắt đầu từ đời này.
Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô,
tự nguyện trở nên nghèo hơn
để làm giàu cho người khác (2 Cr 8,9).
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin cho con nhìn thấy những người nghèo
ở quanh con, ở trong gia đình con,
đang cần đến con.
Bất cứ ai cần đến con đều là người nghèo,
xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng
cả người giàu cũng nghèo,
nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng
cả bản thân mình cũng nghèo
và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt,
một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con
ai cũng nghèo về một mặt nào đó,
ai cũng cần đến người khác.
Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau,
làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo,
vì Chúa rất cần đến chúng con
để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo
để nhận lãnh,
can đảm nhận mình giàu
để hiến trao. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ