Khó thay đổi tư tưởng
Theo dự đoán, năm 2030 có tới hơn 3 triệu đàn ông Việt Nam bị “thừa” và có nguy cơ ế vợ. Tình trạng này sẽ giống với Hàn Quốc những thập niên cuối của thế kỷ 20, và hệ quả là Hàn Quốc đã phải “nhập khẩu” cô dâu, tạo nên mô hình gia đình đa văn hóa. Mất cân bằng giới tính ở nước ta diễn ra khá muộn so với nhiều nước khác trên thế giới, nhưng lại xảy ra với tốc độ kinh hoàng.
Ngỡ rằng, những tư tưởng trọng nam khinh nữ, thèm khát con trai chỉ rơi vào những gia đình kinh tế khó khăn, trình độ văn hóa hạn chế, ở những vùng sâu, vùng xa, nhưng không phải. Điều đáng lo ngại là tư tưởng trọng nam ấy lại đến từ những nơi có đời sống kinh tế phát triển, gia đình khá giả, trình độ học vấn cao. Và chính họ đã “góp phần” làm bức tranh giới tính bị nghiêng lệch sang bên nam.
Hẳn không ít người đã lường tới tình trạng này sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường về xã hội, an ninh và trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của cá nhân, gia đình và là tai họa đối với sự phát triển bền vững của đất nước, dân tộc. Một số hậu quả có thể thấy trước được là việc gia tăng quy mô các hoạt động bắt cóc và buôn bán phụ nữ, buôn bản trẻ em gái. Phụ nữ sẽ bị “giành giật” và sẽ phải kết hôn sớm hơn dự kiến. Đây đang là mối lo lắng của các chức trách ngành dân số.
Những hành vi làm mất cân bằng giới tính có thể xử phạt, thế nhưng tư tưởng trọng thích con trai thì lại nằm ngoài vùng “phủ sóng”, tức nằm trong đầu óc con người, ngoài vòng pháp luật. Nó là định kiến và là sự bảo thủ của văn hóa, khi nó đã thành nếp sống, thành cách nghĩ thay đổi không dễ, luật pháp lại càng khó đụng tới. Vì vậy, chế tài xử phạt hành vi chỉ là phần ngọn, còn gốc là tư tưởng “khát con trai” ấy vẫn bám rễ, ăn sâu vào tiềm thức người Việt. Nếu không có sự thay đổi tích cực, tỷ số giới sinh khi sinh ở Việt Nam có thể tăng lên mức báo động. Cách giải quyết chính là nâng cao nhận thức và mặt bằng dân trí cho người dân. Và như vậy, chắc hẳn phải có sự tham gia tích cực của các cơ quan liên ngành mới có hy vọng. Thách thức rõ ràng là rất lớn, nhưng không thể không làm, để trong tương lai, người Việt không phải chứng kiến cảnh phụ nữ Việt Nam bị “giành giật” như những “món hàng”. Dù vậy, với các nước Á Đông, trong đó có Việt Nam, chịu ảnh hưởng nhiều của mối quan hệ gia đình dòng tộc và tư tưởng Nho giáo, xem ra áp lực này không thể giải quyết trong ngày một ngày hai, cần phải có một lộ trình đúng, bền bỉ và mang tính chiến lược.
Ngô Quốc Đông