CỘNG ĐOÀN CHÚA KITÔ PHỤC SINH

TRUNG TÂM ĐỨC BÀ PHÙ HỘ CÁC GIÁO HỮU

1616 Pyrenees Avenue - Stockton, CA 95210

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG 13-12-2015

Đăng vào: 07:12 NGÀY 13/12/2015        Số lượt xem: 2217

Chuẩn bị sẵn sàng

(19.12.2015 – Thứ Bảy, Trước Lễ Giáng Sinh)

Lời Chúa: Lc 1,5-25
Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.

Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông : Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.

Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. Nhưng sứ thần bảo ông : "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần : "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." Sứ thần đáp : "Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi." Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.

Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. Bà tự nhủ : "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời."

Suy Niệm

Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa. Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét đã sống với nhau bao lâu mà không có con. Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7). Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm. Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ, dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6). Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?

Chính khi ta thất vọng, thì Chúa đến loan báo Tin Vui (c. 19). Tư tế Dacaria may mắn trúng thăm, nên ông được vào Nơi Thánh để lau hương án và dâng hương mới. Tại nơi thâm nghiêm này, khi ông lo việc tế tự, ông được sứ thần Chúa báo tin về đứa con sắp chào đời của mình. Gioan, nghĩa là Đức-Chúa-thi-ân, sẽ là món quà ông được tặng. Nhưng Gioan sẽ còn là món quà cho nhiều người Ítraen, vì Gioan có sứ mạng giải hòa dân tộc ông với nhau và với Chúa. Một con người chưa được mang thai và chào đời, nhưng về người ấy, Thiên Chúa đã có bao ước mơ và dự tính. Ngài cho Gioan được đầy Thánh Thần từ trong lòng mẹ (c. 15). “Làm cho kẻ ngỗ nghịch trở về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa” (c. 17). Đó là những việc Gioan sẽ làm sau này trong tư cách là Êlia mới.

Dacaria có vẻ không tin vào lời sứ thần, Có vẻ ông không còn nuôi hy vọng có một đứa con (c. 18). Ông quên mất chuyện Ápraham đã sinh con trong lúc tuổi già. Là một tư tế hẳn ông phải biết có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn đã sinh con làm thủ lãnh đất Ítraen (Tl 13, 2; 1Sm 1-2; St 16, 1). Việc ông bị câm là một hình phạt, nhưng ông không bị loại trừ. Thinh lặng chín tháng là thời gian ông chờ đợi để lời hứa nên trọn. Từ khi bà Êlisabét có thai, bà ẩn mình một thời gian. Bà chưa muốn cho ai hay biết chuyện này. Niềm vui bất ngờ đến với bà, người được hưởng hạnh phúc làm mẹ. “Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Ngài đoái thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời.”

Mỗi một trẻ thơ chào đời đều có nét của Gioan. Chẳng người nào thấy ánh mặt trời mà lại nằm ngoài ý Thiên Chúa. Như Gioan, ngay từ khi tôi chưa hiện hữu trong lòng mẹ, Thiên Chúa đã nghĩ đến tôi, và biết tên tôi. Tôi có chỗ rất riêng trong chương trình của Chúa. Chúa có một sứ mạng rất riêng cho tôi hôm nay. Thời nào cũng cần Gioan, cần những người kêu gọi hoán cải. Nhân loại thời nay cần những người dọn đường sáng tạo, có khả năng mở những con đường mới đi vào lòng thế nhân.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người. Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh. Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa. Lạy Chúa Giêsu, nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được. Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con ?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc. Xin đồng hành với con, để con không cô đơn. Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu. Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Thiên Chúa ở cùng chúng ta

(18.12.2015 – Thứ Sáu Trước Lễ Giáng sinh)

Lời Chúa: Mt 1,18-24
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ : Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta." Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.

Suy Niệm

Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ. Ngài muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người. Cách trở thành người của Con Thiên Chúa vừa bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột, nhưng do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20). Đây là niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu. Giáo Hội sung sướng đến với máng cỏ để chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.

Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse. Giuse đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai, dù Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới. Ông không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình, nhưng ông cũng không thể lấy Maria làm vợ, với thai nhi trong bụng không phải của ông. Cuối cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19). Như thế ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.

Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse, cần một người cha nhân loại cho Con mình. Con Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha. Người cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ. Maria cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con. Qua sứ thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20), nghĩa là làm đám cưới chính thức với Maria. Việc này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria, nghĩa là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21). Một lời mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng. Đâu phải Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.

Giuse có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin. Làm sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai? Giuse có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha, dù thực sự mình chẳng hề là thế. Thiên Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya. Và ông đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24). Tiếng Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ, nhờ đó Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời, có một mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con. Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Từ Bà Đức Giêsu được sinh ra

(17.12.2015 – Thứ Năm – Trước Lễ Giáng sinh)

Lời Chúa: Mt 1, 1-17
Đây là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham :

Ông Áp-ra-ham sinh I-xa-ác ; I-xa-ác sinh Gia-cóp ; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em ông này ; Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác ; Pe-rét sinh Khét-xơ-ron ; Khét-xơ-ron sinh A-ram ; A-ram sinh Am-mi-na-đáp ; Am-mi-na-đáp sinh Nác-son ; Nác-son sinh Xan-môn ; Xan-môn lấy Ra-kháp sinh Bô-át ; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết ; Ô-vết sinh Gie-sê ; ông Gie-sê sinh Đa-vít.

Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn ; Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am ; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia ; A-vi-gia sinh A-xa ; A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát ; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram ; Giô-ram sinh Út-di-gia ; Út-di-gia sinh Gio-tham ; Gio-tham sinh A-khát ; A-khát sinh Khít-ki-gia ; Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se ; Mơ-na-se sinh A-môn ; A-môn sinh Giô-si-gia ; Giô-si-gia sinh Giơ-khon-gia và các anh em vua này ; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.

Sau thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên ; San-ti-ên sinh Dơ-rúp-ba-ven ; Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút ; A-vi-hút sinh En-gia-kim ; En-gia-kim sinh A-do ; A-do sinh Xa-đốc ; Xa-đốc sinh A-khin ; A-khin sinh Ê-li-hút ; Ê-li-hút sinh E-la-da ; E-la-da sinh Mát-than ; Mát-than sinh Gia-cóp ; Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.

Như thế, tính chung lại thì : từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời ; từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời ; và từ thời lưu đày ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.

Suy Niệm

Chúng ta bước vào một giai đoạn mới để mừng lễ Giáng Sinh, mừng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người cách trọn vẹn.

Làm người là có một gia phả. Thánh Matthêu đã muốn viết một gia phả dài của Đức Giêsu Kitô, không phải một cách hết sức chính xác và đầy đủ theo nghĩa lịch sử, nhưng mang nặng ý nghĩa thần học. Mátthêu muốn cho thấy Đức Giêsu là con của cụ tổ Abraham, và cuộc đời Ngài gắn kết với Ítraen, dân được tuyển chọn. Ngài cũng là Con của vua Đavít, nên Ngài có cơ sở để là Đấng Kitô.

Làm người là sống trong dòng lịch sử một dân tộc với tất cả những thăng trầm và biến động của nó. Mátthêu chia lịch sử dân Do-thái làm ba thời kỳ. Thời kỳ chuẩn bị cho bước đầu của vương triều vua Đavít (cc. 2-6a), thời kỳ trị vì của các vua thuộc dòng Đavít (cc. 6b-11), và thời kỳ sau lưu đầy, khi vương quyền Đavít đã mai một (cc. 12-16). Mỗi thời kỳ mười bốn đời, nghĩa là hai lần bẩy, một con số linh thánh. Đức Kitô đã đằm mình trong dòng lịch sử này. Ngài là người cuối của gia phả, nhưng lại là nhân vật trung tâm (c.16-17). Tất cả lịch sử của dân tộc Ítraen cũng là lịch sử cứu độ. Dòng lịch sử cứu độ này đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài, Thiên Chúa đã đưa lịch sử nhân loại đến chỗ thành tựu.

Trong gia phả Đức Giêsu có tên một số phụ nữ. Đó là chuyện lạ, vì người Do-thái thường chỉ để tên người cha. Trừ Đức Maria, bốn phụ nữ kia đều có gốc dân ngoại. Ta-ma và Ra-kháp gốc Canaan, Rút gốc Mô-áp, vợ Urigia người Hít-tít. Các phụ nữ này đều có hoàn cảnh khác thường. Ta-ma giả làm điếm để ngủ với cha chồng là Giu-đa, hầu sinh con cho nhà chồng (St 38). Ra-kháp là một cô điếm ở Giêricô, đã giúp Giosuê chiếm Canaan (Gs 2). Bét-sa-bê, vợ của Urigia, đã ngoại tình và lấy vua Đavít (2Sm 11-12). Rút đã lấy ông Bô-át là người bà con gần, để nối dõi cho chồng (R 1-4). Đức Giêsu đã là con cháu của các phụ nữ khác thường này. Ngài cũng mang trong mình chút dòng máu của dân ngoại.

Cuộc sinh hạ của Đức Kitô cũng khác thường. Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Gia-cóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Đức Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16). Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít. Làm người cần được sống trong bầu khí gia đình để lớn lên. Gia phả của Đức Giêsu nhắc tôi về gia phả của chính mình. Cũng với những bóng tối của lưu đày, với bao bất thường và vấp ngã. Chỉ mong trong cuộc đời tôi, gia đình tôi, dân tộc tôi, có mặt Giêsu.

Cầu Nguyện

Lạy Cha từ ái, đây là niềm tin của con: Con tin Cha là Tình yêu, và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con. Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa, cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt, cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân, con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái. Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại, chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất cũng có một đốm lửa của sự thiện, được vùi sâu dưới những lớp tro. Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích, thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người. Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng. Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ đang chuyển mình tiến về với Cha, qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau, vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng, mọi dị biệt, thành kiến, để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn. Lạy Cha, đó là niềm tin của con. Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Còn phải đợi ai

(16.12.2015 – Thứ Tư Tuần 3 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Lc 7, 19-23
Khi ấy, ông Gioan sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Khi đến gặp Đức Giê-su, hai người ấy nói: “Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: “Thầy có thật là “Đấng phải đến” không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Chính giờ ấy, Đức Giê-su chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy.Người trả lời hai người ấy rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Suy Niệm

Đường lối của Thiên Chúa lúc nào cũng làm con người ngỡ ngàng. Ngài có lối nghĩ, lối đi rất riêng, khó đoán trước được. Chính vì thế con người dễ bắt hụt Ngài. Ngài ở đây mà ta lại cứ đi tìm Ngài ở kia. Nhiều khi ta kêu ca vì không sao gặp được Ngài ở những điểm hẹn quen thuộc. Phải đổi cái nhìn xưa, ra khỏi lối nghĩ cũ, mới hy vọng gặp được Ngài.

Gioan có một hình ảnh khá rõ về Đấng Mêsia. Ngài như người cầm nia rê lúa và đốt thóc lép trong lửa hay như cái rìu chặt những cây không sinh trái. Đấng Mêsia thích dùng lửa để thanh luyện cái xấu (Lc 3, 9, 16-17). Gioan rất xác tín về hình ảnh này của mình. Vì thế ông sốt ruột khi không thấy Đức Giêsu làm điều ông chờ đợi. Trong bóng tối của nhà tù nằm ở phía đông Biển Chết, Gioan còn phải chiến đấu với bóng tối của sự nghi ngờ nơi mình. Đức Giêsu mà ông loan báo có đúng là Đấng Mêsia không?

Ông sai hai môn đệ đến tận nơi gặp Đức Giêsu, để hỏi cho ra lẽ. “Thầy có thật là Đấng-phải-đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (c. 19). Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy một khuôn mặt Mêsia khác hẳn. Ngài bảo hai môn đệ của Gioan về thuật lại cho thầy mình những gì họ mắt thấy tai nghe vào chính giờ họ đến gặp (c. 21). Có sáu dấu chỉ của thời đại Mêsia, thời của Đấng Thiên Sai: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, và người nghèo được nghe Tin Mừng (c. 22). Đây là những dấu chỉ Ngài đã và đang làm cho dân chúng. Những dấu chỉ này làm cho bao lời ngôn sứ Isaia ngày xưa được ứng nghiệm (Is 26, 19; 29, 18-19; 35, 5-6; 42, 18; 61,1). Như thế Đức Giêsu quả là Đấng Mêsia, nhưng không phải là Mêsia như Gioan chờ đợi. Ngài không phải là một Mêsia đến phán xét hay tiêu diệt ác nhân, cho bằng là một Mêsia khiêm nhu và đầy lòng thương xót. Đức Giêsu đến để công bố một năm hồng ân cứu độ (Lc 4, 19).

“Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (c. 23). Muốn tránh vấp ngã, Gioan phải đổi cái nhìn của mình về Đấng Mêsia. Đổi cái nhìn về Thiên Chúa không phải chuyện dễ. Nhiều khi chúng ta thích một Thiên Chúa chiến thắng vẻ vang, một Thiên Chúa quyền uy, dùng sức mạnh để chinh phục lòng người. Chúng ta không chịu được một Thiên Chúa kiên nhẫn với cỏ lùng, và để cho kẻ ác nhởn nhơ tác oai tác quái. Ước gì chúng ta không mất đức tin khi đứng trước máng cỏ, trước Hài Nhi Giêsu, nhỏ bé và yếu ớt, lặng lẽ và khiêm hạ, vì chúng ta tin Ngài cứu độ thế giới bằng chính sự yếu đuối.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ xát đau thưong của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J


Hối hận nên lại đi

(15.12.2015 – Thứ ba Tuần 3 Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 21, 28-32
Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục rằng: “28 Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.”29 Nó đáp: “Con không muốn đâu! ” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi.30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây! ” nhưng rồi lại không đi.31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha? ” Họ trả lời: “Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”

Suy Niệm

Dụ ngôn hôm nay là một dụ ngôn đặc biệt, với nội dung đơn sơ. Đức Giêsu nói dụ ngôn này cho các thượng tế và kỳ mục. Một người cha có hai con trai. Ông sai đứa con thứ nhất đi làm vườn nho. Lúc đầu anh ta từ chối, nhưng sau đó hối hận nên lại đi (c. 29). Ông gặp đứa con thứ hai và kêu anh làm cùng một việc. Anh mau mắn nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không đi (c. 30). Đức Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng việc hỏi họ một câu khá dễ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của cha?” Không mấy khó khăn, các thượng tế và kỳ mục đã trả lời đúng. Nhưng họ không ngờ mình mắc bẫy của Ngài như xưa vua Đavít đã mắc bẫy của ngôn sứ Nathan (2 Sm 12, 5). Bởi chính họ là đứa con thứ hai, nhận lời, nhưng rồi lại không đi, chính họ là những người không thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Hẳn giới lãnh đạo ở Giêrusalem sẽ tức điên lên vì nhục nhã khi nghe Đức Giêsu nói đứa con thứ nhất chính là những kẻ thu thuế và các cô gái điếm (c. 31). Theo Đức Giêsu, những người tội lỗi này sẽ vào Nước Trời trước cả giới lãnh đạo tôn giáo đầy uy tín, đạo đức, oai phong. Tại sao lại có chuyện oái oăm đó? Chính thái độ tin hay không tin ông Gioan tạo ra sự khác biệt này. Gioan xuất hiện như một hiện tượng nổi bật, ai cũng thấy. Các vị chức sắc tôn giáo cũng thấy, nhưng sau đó họ không hối hận mà tin (c. 32). Còn những người tội lỗi, giống đứa con thứ nhất, lúc đầu từ chối cha, nhưng sau đó đã hối hận và vâng lời (c. 29). Họ đã tin Gioan và bước vào đường công chính (c. 32).

Từ chỗ nói: “Thưa cha, con đây”, đến chỗ thực sự đi làm vườn nho, có một khoảng cách khá lớn, khiến nhiều người ngần ngại. Chấp nhận tin là chấp nhận lên đường, bước vào cuộc phiêu lưu. Con đường công chính đầy thách đố, bấp bênh và bất trắc. Tin vào Gioan đòi hỏi sám hối, để đón Đấng Thiên Sai. Nhưng ít người muốn nhận mình có lỗi. Có khi cô gái điếm lại dễ hối hận hơn một người công chính. Có khi anh thu thuế lại dễ ăn năn hơn một người đạo hạnh. Dù sao tin vào Gioan khiến mọi người không được sống như xưa. Hơn nữa, niềm tin ấy thế nào cũng dẫn đến tin vào Đức Giêsu. Tin vào Đức Giêsu là chấp nhận mất đi những chỗ dựa ổn định. Không dám mất thì cũng chẳng dám tin.

Nhiều Kitô hữu hôm nay gặp khó khăn không nhỏ về đức tin, vì sống đức tin đòi họ phải trả một giá quá lớn. Nếu chúng ta đã có lần nói: Con không muốn đi!, thì chúng ta luôn có thời gian suy nghĩ lại, để tự điều chỉnh, và sau đó nói: “Này con đây, xin hãy sai con.”

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con. Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J


Gioan là một ngôn sứ

(14.12.2015 - Thứ hai Tuần III Mùa Vọng)

Lời Chúa: Mt 21,23-27
Một hôm, Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi : "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy ? Ai đã cho ông quyền ấy ?" Đức Giê-su đáp : "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi ; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có ? Do Trời hay do người ta ?" Họ mới nghĩ thầm : "Nếu mình nói : "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại : "Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?" Còn nếu mình nói : "Do người ta", thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ." 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su : "Chúng tôi không biết." Người cũng nói với họ : "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy."

Suy Niệm

“Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy” (c. 23). Hai câu hỏi của giới lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem đặt cho Đức Giêsu. Làm các điều ấy là vào thành thánh giữa đoàn dân tung hô vang dội, là đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, là chữa bệnh và giảng dạy ở đó (Mt 21, 12-15). Ai là Đấng đã cho ông Giêsu quyền ấy? Đây không phải là câu hỏi để thượng tế và kỳ mục tìm thông tin. Đây là câu hỏi để họ tìm thêm lý lẽ nhằm bắt bẻ Đức Giêsu khi có dịp.

Đức Giêsu đã không trực tiếp trả lời câu hỏi này. Hay đúng hơn Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi khác (c. 24). Ngài chỉ hỏi họ đúng một điều thôi, về nguồn gốc phép rửa của Gioan. “Do trời hay do người phàm”, do Thiên Chúa hay do loài người (c. 25). Câu hỏi này lập tức đưa họ vào thế bị động, lưỡng nan. Nếu do Thiên Chúa, tại sao họ lại không tin Gioan? (c. 25). Nhưng họ lại không dám bảo phép rửa của Gioan là do người phàm, vì dân chúng tin Gioan là một ngôn sứ (c. 26), nghĩa là người của Thiên Chúa, người được sai để nói lời của Ngài.

Các thượng tế và kỳ mục đã không dám trả lời câu hỏi của Đức Giêsu. Nếu nhìn nhận phép rửa của Gioan là đến từ Thiên Chúa, thì họ cũng phải nhìn nhận Đức Giêsu, vì Gioan làm chứng Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Điều này thì họ không hề muốn, vì nó đòi họ phải thay đổi cuộc sống, thay đổi mọi lối suy nghĩ và mọi niềm tin xưa nay. Ngược lại nếu coi thường phép rửa của Gioan, họ lại sợ dân chúng. Họ không dám đi ngược với cái nhìn của dân, vì muốn được lòng dân. Rõ ràng họ không có tự do để chọn một trong hai. Đức Giêsu đã bắt họ phải công khai quan điểm của mình. Nhưng họ đã chọn thái độ né tránh: “Chúng tôi không biết.” (c. 27). Nói câu này trước mặt dân chúng thì quả là khó nghe và khó tin. Làm sao họ lại không biết chuyện quan trọng đó? Vì họ không thỏa mãn điều kiện Đức Giêsu đưa ra (c. 24), nên Ngài sẽ không trả lời cho họ biết Ngài dùng quyền nào (c. 27).

Thành thật với chính mình thật khó biết bao! Đón nhận sự thật với trọn cả tâm hồn đòi phải trả giá. Sự thật bao giờ cũng đòi ta đổi đời, không để ta yên. Chính vì thế ta thích quanh co và dễ né tránh sự thật. Nhưng dù ta có né tránh sự thật, thì sự thật vẫn cứ theo đuổi ta luôn. Chẳng ai làm át được tiếng nói của sự thật. Mùa Vọng là thời gian ra khỏi bóng tối của dối trá, để đón lấy sự thật. Chỉ cần bớt một chút cứng cỏi của tự mãn về cái tôi, thêm một chút mềm mại của tình yêu khiêm hạ, là ta có cơ may gặp được chân lý như đám đông dân chúng. Và chân lý sẽ cho ta được tự do (Ga 8, 32).

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.

Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.

Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn. Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


SÁM HỐI

(13.12.2015 – Chúa nhật 3 Mùa Vọng, Năm C)

Lời Chúa: Lc 3,10-18
10 Dân chúng lũ lượt kéo đến xin ông Gioan làm phép rửa; họ hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” 11 Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. 12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: “Ðừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho mình”. 14 Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”.

15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi về ông Gioan: biết đâu ông chẳng là Ðấng Mêsia. 16 Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Ðấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.

Suy Niệm

Màu tím bao trùm mùa Vọng. Các Kitô hữu lo sám hối để lãnh nhận bí tích Hòa giải. Nhiều người ngại xưng tội, ngại đào bới lại quá khứ. Xưng tội mang dáng dấp của một cái gì buồn thảm! Thật ra bí tích Hòa giải là một điều tươi tắn hơn nhiều. Sám hối không phải chỉ là quay về quá khứ, mà còn là hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng. Sám hối còn có màu hồng như màu áo lễ hôm nay.

Khi dân chúng đến với Gioan, nhận phép rửa sám hối, họ đã hỏi ông: Chúng tôi phải làm gì đây? Cả những người thu thuế và binh lính cũng hỏi những câu tương tự. Chúng tôi: sám hối mang tính tập thể, tính liên đới. Hội Thánh chúng tôi cùng chịu trách nhiệm về sự dữ. Phải: một thúc bách của trái tim hoán cải thực sự. Làm gì đây: sám hối không phải chỉ là một cảm xúc, tuy thánh thiện, nhưng lại mông lung, xa rời thực tế. Sám hối đích thực đưa đến một hành động cụ thể. Gioan đã cho ta những câu trả lời còn nguyên giá trị. Sám hối là sống bác ái, có hai chia một. Nhường cơm sẻ áo là ra khỏi nỗi bận tâm về mình. Sám hối là sống công bằng, không tham lam vơ vét, không dùng quyền lực để cưỡng đoạt, áp bức ai. Sám hối là hết nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực. Như thế dọn đường cho Chúa đến bằng sám hối đòi ta chỉnh đốn lại con đường đến với tha nhân. Trở về với Chúa diễn tả qua việc trở về với anh em. Gioan không bắt những người thu thuế bỏ cái nghề ô nhục, cũng không đòi những người lính Do thái bỏ phục vụ Hêrôđê. Ông cũng không bảo họ lên Ðền Thờ dâng lễ đền tội, hay vào hoang địa sống nhiệm nhặt như mình. Họ cứ làm nghề của họ, nhưng với một tinh thần mới.

Sám hối thực sự thì đụng đến bàn tay, một bàn tay chứa đựng cả con tim và khối óc. Trong mùa Vọng này, chúng ta phải hỏi nhau: mình phải làm gì? Giới trẻ hôm nay muốn cảm thấy mình có ích, và muốn dùng thời giờ của mình sao cho có ý nghĩa. Hãy gặp nhau, chấp nhận nhau và làm việc với nhau, Hãy cùng nhau làm một điều tốt nào đó cho đồng bào. Hãy cho thấy mình là người có đức tin. Ðức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên. Xưng tội cần dốc lòng chừa. Dốc lòng chừa đòi đổi lối nghĩ và lối sống. Ðứa con thứ cần sống khác, sau khi trở về nhà Cha.

Chúng ta đã được chịu phép rửa trong Thánh Thần, nhưng chúng ta vẫn cần được Thánh Thần thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta không thể tự sức mình canh tân cuộc sống. Trở lại với tình yêu là hồng ân của Thánh Thần. Ước gì chúng ta mềm mại để cho Ngài uốn nắn và dạy ta biết làm gì để bày tỏ lòng hoán cải.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J


CÁC TIN KHÁC

SUY NIỆM CN LỄ THÁNH GIA
SUY NIỆM CN LỄ THÁNH GIA

Lời chứng của ông Gio-an
(02.01.2015 – Thứ Bảy – mùa Giáng sinh)
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình. Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm. Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân. Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11). Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia.là Đức Giêsu, một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm. Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi : “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại. Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ, thì người Do-thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan. Họ muốn biết ông Gioan là ai.

SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 25-12-2015
SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 25-12-2015

Tin Mừng trọng đại

(24.12.2015 – Lễ Chúa Giáng Sinh – Lễ đêm)
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ, làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2). Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống, chấp nhận thân phận hữu hạn của con người. Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn. Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ. Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng. Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét. Ngài cũng không được chào đời nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem. Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7). Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời. Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật. Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm? Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa. Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không? Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không? Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ. Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ. Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa. Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya, ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại. Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!

SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - 20-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - 20-12-2015

Thiên Chúa viếng thăm
(Ngày 24.12.2015 – Trước Lễ Giáng Sinh)
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày, lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng. Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68). Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77). Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76). Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông. Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một. Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69). Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78). Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79). Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77), là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG 06-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG 06-12-2015

ĐAU KHỔ VÌ SỨ VỤ
(12.12.2015 – Thứ Bảy Tuần 2 Mùa Vọng)

Nếu có phải liên lụy đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa và sứ mạng được trao. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG 29-11-2017
SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG 29-11-2017

Chạnh lòng thương
(6.12.2015 – Thứ bảy Tuần 1 Mùa Vọng)

Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người. Thiên Chúa của Ítraen có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ. Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người. Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19). Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21). Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng. Ngài làm cho mưa thuận gió hòa, cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy. Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực, súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê, bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24). Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.

Top