CỘNG ĐOÀN CHÚA KITÔ PHỤC SINH

TRUNG TÂM ĐỨC BÀ PHÙ HỘ CÁC GIÁO HỮU

1616 Pyrenees Avenue - Stockton, CA 95210

SUY NIỆM CN LỄ THÁNH GIA

Đăng vào: 07:12 NGÀY 26/12/2015        Số lượt xem: 2139

Lời chứng của ông Gio-an

(02.01.2015 – Thứ Bảy – mùa Giáng sinh)

Lời Chúa: Ga 1,19-28
Đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông : "Ông là ai ?" Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng : "Tôi không phải là Đấng Ki-tô." Họ lại hỏi ông : "Vậy thì thế nào ? Ông có phải là ông Ê-li-a không ?" Ông nói : "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng ?" Ông đáp: "Không." Họ liền nói với ông : "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến ? Ông nói gì về chính ông ?" Ông nói : Tôi là tiếng người hô trong hoang địa : Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông : "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ ?" Ông Gio-an trả lời : "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

Suy Niệm

Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình. Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm. Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân. Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11). Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia.là Đức Giêsu, một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm. Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi : “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại. Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ, thì người Do-thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan. Họ muốn biết ông Gioan là ai. Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay Êlia tái giáng (Ml 4,5), hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan báo (Tl 18, 15.18), mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy. Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng ngắn hơn và sắc hơn. “Tôi không phải là Đức Ki tô. – Tôi không phải là.- Không.” Gioan từ chối những chức danh mà nhiều người thèm muốn., bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.

Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời về con người của mình, Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40, 3). “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa. Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa.” Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng đến sau, Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi quai dép. Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho người nô lệ thấp kém nhất.

Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh sáng (Ga 1, 7-8). Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con Một Thiên Chúa. Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh Sáng thật. Cám ơn Gioan vì tiếng của ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Augustinô)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Ghi nhớ và suy niệm trong lòng

(01.01.2016 – Thứ Sáu – Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa)

Lời Chúa: Lc 2,16-21
Khi ấy, các người chăn chiên hối hả ra đi đến Bê-lem. 16 Họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su ; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.

Suy Niệm

Làm người ai cũng cần có mẹ. Mẹ là người cưu mang, sinh ra và dưỡng nuôi con cho khôn lớn. Khi Con Thiên Chúa làm người, mang lấy trọn phận người, Ngài cũng cần một người mẹ, như bao người khác. Mẹ Maria là thiếu nữ, là trinh nữ được Thiên Chúa tuyển chọn, Để thụ thai và sinh hạ Con Một Thiên Chúa. Khi Công Đồng Êphêsô (năm 431) gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Công Đồng không có ý dạy Đức Mẹ sinh ra Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần. Đức Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu, Mà Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).

Chắc Mẹ Ma ria không thể hiểu hết và hiểu ngay Màu nhiệm lớn lao mà Mẹ đang cưu mang trong dạ. Khi các mục đồng kể lại những điều huy hoàng họ nghe thấy ở Belem, Mẹ Maria ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong tim mình. Để đi vào mầu nhiệm cách sâu xa, cần ơn soi sáng của Chúa, Nhưng cũng cần thái độ chiêm niệm, nghiền ngẫm trong lặng thinh.

Chúng ta thường để ý đến biến cố Truyền Tin và biến cố Giáng Sinh, biến cố Ngôi Lời bắt đầu hiện hữu trong lòng mẹ và biến cố chào đời. Nhưng chúng ta không được quên chín tháng Mẹ cưu mang người Con. Con Thiên Chúa đã lớn lên từ từ trong lòng Mẹ như các thai nhi khác. Muốn sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, Chúng ta cũng cần nhiều thời gian để cưu mang Ngài trong cuộc đời ta, để Ngài trở nên đủ cứng cáp khi chào đời. Chúng ta cũng phải chấp nhận cả sự đau đớn khi sinh hạ.

Bước qua một Năm Mới, mở trang đầu của cuốn lịch mới, Chúng ta mong những điều mới mẻ tốt lành xảy đến cho mình Và muốn tặng cho nhau một câu chúc đầy ý nghĩa : “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!”(Ds 6, 26).

Cầu Nguyện

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối. Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền. Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông. Một quả tim trung thành và quảng đại, không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn, yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.

Một quả tim vĩ đại và bất khuất, không khép lại trước những kẻ vô ơn, không chán nản trước người lạnh nhạt. Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô, quả tim mang vết thương vì yêu Ngài, vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Ngôi Lời đã thành người

(31.12.2015 – Thứ Năm – Bát nhật Giáng Sinh)

Lời Chúa: Ga 1,1-18
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố : "Đây là Đấng mà tôi đã nói : Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả ; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

Suy Niệm

Ông Soren Kierkegaard, một triết gia người Đan Mạch, kể chuyện sau. Một vị vua bỗng dưng đem lòng thương cô thôn nữ nghèo. Ông tin rằng mình có thể dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ. Nhưng ông lại sợ cô lấy ông chỉ vì nể phục chứ không yêu. Như thế tương quan giữa hai người không được trọn vẹn. Sau khi suy nghĩ, ông thấy chỉ có cách là thực sự từ bỏ ngai vàng, trở thành một anh nông dân nghèo, và bày tỏ tình yêu mình cho cô. Vị vua biết làm thế là liều lĩnh, vì ông có thể mất cả cô lẫn ngôi báu. Cô có thể chê chàng nông dân, hay chê quyết định dại dột của vị vua. Nhưng nhà vua vẫn dám liều, vì ông quá yêu cô thôn nữ, và ông muốn đây là một mối tình thực sự.

Câu chuyện cảm động trên đây đưa ta vào chuyện tình đã xảy ra giữa Ngôi Lời Thiên Chúa và nhân loại. Ngôi Lời còn cao trọng hơn vị vua kia bội phần. Ngài là Thiên Chúa Con Một, dựng nên vạn vật (cc. 3. 18). Ngài là Đấng duy nhất thấy Thiên Chúa và ở trong lòng Thiên Chúa, nên chỉ Ngài mới có thể bày tỏ Thiên Chúa cho nhân loại (c.18). Ngài tràn đầy ân sủng và sự thật, sự sống và ánh sáng (cc. 3. 14). Tất cả những điều ấy là quà tặng của Ngôi Lời cho con người.

Nhưng quà tặng lớn lao và bất ngờ nhất làm ta ngỡ ngàng, reo vui, đó là biến cố Ngôi Lời trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (c. 14). Con Thiên Chúa trở nên con của loài người và mang tên Giêsu (c. 17). Ngài mang khuôn mặt của ta, đứng chung một dòng tiến hóa với ta. Ngài dựng lều trên trái đất, một hành tinh bé xíu nhưng tuyệt vời, vì đã được ghi dấu chân Con Thiên Chúa. Ông Luther viết: “Ngài đã ăn, uống, ngủ, thức; Ngài đã cảm thấy chán nản, biết buồn, biết vui. Ngài khóc, cười, đói, khát; Ngài đổ mồ hôi; Ngài vất vả, cầu nguyện, đến nỗi giữa Ngài với ta không có dị biệt nào, tuyệt nhiên không, ngoại trừ Ngài là Thiên Chúa và Ngài vô tội.”

Khác với vị vua không muốn làm vua nữa để thành nông dân, Ngôi Lời khi thành người vẫn là Con Thiên Chúa dưới dạng tự hủy. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật. Nếu Ngài chỉ là một con người hay một bậc vĩ nhân, thì Ngài chỉ đáng ta kính trọng chứ không phụng thờ. Nếu Ngài chỉ là một Thiên Chúa đội lốt người, chứ không là người thật, thì Ngài không thể cứu độ và thần hóa con người. Lễ Giáng sinh là lễ hội của mọi người trên mặt đất vì Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ phận người của chúng ta. Ngài đã đến với thế giới này như nhà của Ngài (cc. 9. 11). Chỉ cần nhận biết, tin vào Ngài, đưa Ngài vào nhà (cc. 10-12) là chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, Đức Giêsu vẫn đứng ngoài để chờ. Có ai mở cửa cho Ngài không? (Kh 3, 20).

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Ngày càng lớn lên

(30.12.2015 – Thứ Tư – Tuần bát nhật Giáng sinh)

Lời Chúa: Lc 2, 36-40
Khi ấy, có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.

Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

Suy Niệm

Khi viết sách Tin Mừng, thánh Luca thích nêu bật vai trò của phụ nữ, vì trong xã hội Ítraen thời xưa, việc lãnh đạo chủ yếu do đàn ông. Luca hay đặt sóng đôi những câu chuyện về các nhân vật nam và nữ. Sau trình thuật sứ thần Gabrien truyền tin cho ông Dacaria, thì đến trình thuật sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ. Sau sự xuất hiện của ông già Simêon nói tiên tri về Hài Nhi, thì bà Anna cũng được giới thiệu minh nhiên như một nữ ngôn sứ. Làm ngôn sứ đâu phải là đặc quyền dành cho phái nam!

Khuôn mặt của Simêon và Anna có những nét giống nhau. Cả hai đều là những người tuổi cao và đạo hạnh. Đời sống của họ gắn bó với Đền thờ. Riêng cuộc đời của cụ bà Anna thì thật đáng phục. Cụ xuất giá được bảy năm thì ở góa, nay cụ đã tám mươi tư. Giả như cụ lấy chồng vào năm mười lăm tuổi, thì hẳn cụ đã sống trong cảnh góa bụa hơn sáu mươi năm. Một thời gian dài không có chỗ dựa vững chắc của người chồng. Nhưng cụ Anna lại tìm thấy một chỗ dựa khác, vững hơn. Đó là Thiên Chúa mà cụ đêm ngày thờ phượng (c. 37). Đó là Đền thờ mà cụ coi như nhà của mình. Đời sống của một góa phụ trẻ, lúc mới ngoài hai mươi, thật không dễ. Ăn chay cầu nguyện là cách để cụ làm chủ bản thân và thắng cám dỗ.

Simêon và Anna đều là những người cao tuổi đã và đang chờ. Họ sống để chờ những lời Chúa hứa được thành tựu, sống để chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem (c. 38). Anna có biết hôm nay nỗi đợi chờ của cụ được đáp ứng không? Với trực giác của một ngôn sứ, cụ nhận ra ngay vị Cứu tinh bé nhỏ đang được bồng ẵm trên tay của đôi vợ chồng nghèo. Như xuất thần, cụ nói về Hài Nhi cho những người chung quanh. Không phải chờ nữa, vì ơn cứu chuộc mong mỏi từ lâu nay đã đến. Thiên Chúa đã giữ trọn lời hứa của Ngài.

Chúng ta đang mừng Lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa làm người. Chúng ta có ít thời gian để suy niệm về thời gian của Ngài ở Nadarét. Hơn ba mươi năm để Hài Nhi từ từ lớn lên, trở nên người trưởng thành. Làm người là chấp nhận lớn lên mỗi ngày một chút về mọi mặt. Thân xác của cậu Giêsu trở nên mạnh mẽ, trí tuệ cậu đầy khôn ngoan, và về mặt tâm linh, ân lộc của Thiên Chúa ở trên cậu (c. 40). Hài Nhi Giêsu đã lớn lên một cách quân bình để thành Thầy Giêsu đi rao giảng vào lúc ngoài ba mươi. Con Thiên Chúa cũng phải chăm chỉ học làm người, qua tha nhân và kinh nghiệm, qua lao động và thách đố trong cuộc sống. Ngài chia sẻ phận người long đong của chúng ta, nên Ngài hiểu gánh nặng của phận người. Xin được học nơi Nadarét về chia sẻ và phục vụ, về tha thứ và yêu thương. Xin được trở nên người có khả năng dám sống và chết cho người khác.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người – cũng như con - đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.

Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi. Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Ơn cứu độ cho muôn dân

(29.12.2015, thứ Ba, trong Tuần Bát nhật Giáng sinh)

Lời Chúa: Lc 2, 22-35
Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa,như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

Suy Niệm

Luật lệ thường làm người ta cảm thấy gò bó, mất tự do. Người Do Thái phải giữ Luật Chúa đã ban cho Môsê. Con trai thì phải được cắt bì và đặt tên tám ngày sau khi sinh (Lc 2,21). Con trai đầu lòng thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2), nên cha mẹ phải nộp năm sê-ken bạc cho tư tế để chuộc lại con cho mình (Ds 3,47-48). Người phụ nữ sau khi sinh con, bị coi là nhơ uế (Lv 12, 2-8), phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền thờ. Bốn mươi ngày sau khi sinh con trai, bà cần làm lễ thanh tẩy. Bà phải dâng cho Đền thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một con chim gáy hay bồ câu để làm lễ tạ tội. Nếu nghèo, bà chỉ cần dâng một cặp bồ câu non hay chim gáy là đủ.

Giuse và Maria đã vui vẻ giữ những luật này, dù ngày nay đối với chúng ta, chúng thật là khó hiểu và khó chấp nhận. Hãy nhìn ngắm đôi vợ chồng nghèo lên Giêrusalem. Họ đã vượt một quãng đường xa, với đứa con mới hơn tháng tuổi. Maria chịu thanh tẩy, dù bà biết mình đã cưu mang Đấng Thánh. Bà đã dâng lễ vật đơn sơ của một người nghèo (c. 24). Dù Luật không buộc, ông bà cũng đem Con lên Đền thờ để dâng. Họ muốn con mình thuộc trọn về Thiên Chúa (x. 1 Sm 1, 22). Ông bà đã không đòi hỏi một đặc ân hay miễn trừ nào. Giữ Luật là cách họ thể hiện tình yêu đối với Chúa.

Có ai nhận ra đôi vợ chồng với đứa con nhỏ này là ai không? Có, một người công chính và sùng đạo tên là Simêon. Thánh Thần hằng ngự trên ông (c. 25), và nói cho ông biết ông sẽ thấy Đức Kitô trước khi lìa đời (c. 26). Chính Thánh Thần thúc đẩy ông lên Đền thờ vào lúc này (c. 27). Bỗng nhiên ông thấy mầu nhiệm lớn lao đang tỏa sáng, nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của đôi vợ chồng nghèo. Mọi mong chờ lâu nay của ông được đền đáp. Các mục đồng đã nhận ra Đức Kitô nơi bé thơ quấn tã, nằm máng cỏ, còn Simêon nhận ra Ngài nơi em bé được bồng ẵm bởi đôi vợ chồng. Ông đã bồng Hài Nhi trong vòng tay, ngất ngây vì hạnh phúc. Môi ông bật lên lời chúc tụng của người sẵn sàng nhắm mắt ra đi. Ơn cứu độ cho muôn dân đã đến đây rồi (cc. 30-31). Hài Nhi bé nhỏ này là Ánh sáng cho muôn dân, là Vinh quang cho Dân Ítraen của Đức Chúa (c. 32).

Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày, cần có sự gần gũi thân thiết với Thánh Thần như ông Simêon. Thánh Thần như trò chuyện, mách bảo, thôi thúc ông từ bên trong. Thánh Thần soi sáng để ông nhận ra điều lớn lao mắt phàm không thấy. Nhưng để nghe được sự mách bảo thầm kín của Thánh Thần, chúng ta cũng phải có sự thánh thiện và lòng khát khao như ông Simêon. Chẳng còn mơ ước gì ngoài việc được gặp mặt Đức Kitô qua cuộc sống.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ. Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những người sống không ra người. Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục, nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa. Chúa hiện diện nơi Giáo Hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng Kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vu trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa. Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa. Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường. Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J


Khóc thương con mình

(28.12.2015 – Thứ Hai – Tuần Bát nhật Giáng sinh – Các thánh Anh hài tử đạo)

Lời Chúa: Mt 2, 13-18
Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! “Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

Bấy giờ vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Ở Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.

Suy Niệm

Trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh, một thời gian rất vui, chúng ta cũng nhớ đến cái chết của các Thánh Anh Hài. Không rõ đã có bao nhiêu trẻ thơ bị giết bởi vua Hêrôđê Cả. Vị vua này điên cuồng bảo vệ ngôi báu nên đã giết nhiều người, trong số đó có người vợ Do Thái và ba con trai của ông. Đối với ông, việc sát hại trẻ thơ ở Belem chỉ là chuyện nhỏ.

Trước khi giết các bé trai ở Belem, vua đã muốn giết Hài Nhi Giêsu. Nhưng Thiên Chúa có cách bảo vệ cho Con của Ngài. Giuse vẫn là người đứng mũi chịu sào trong cơn nguy khó. Sứ thần báo mộng cho ông, để ông đưa Hài Nhi và Mẹ trốn qua Ai Cập. Khi được báo, ông đã trỗi dậy giữa đêm khuya và lên đường. Cuộc trốn chạy vội vã trong đêm với những lo sợ, thiếu thốn, vất vả. Ngay từ khi chào đời, Đức Giêsu đã bị đe dọa, phải sống xa quê nhà. Đấng đem đến ơn cứu độ lại cần được cứu. Đau khổ và thập giá đã có mặt ngay từ khi Vầng Dương ló rạng.

Biết Hài Nhi Giêsu đã trốn thoát, vua Hêrôđê nổi cơn thịnh nộ, vì thấy mình bị mắc lừa bởi các nhà Đạo sĩ. Ông bực tức ra lệnh giết các bé trai dưới hai tuổi ở Belem. Tiếng khóc của trẻ thơ và của các bà mẹ vang lên như oán than. Có ai còn nghe tiếng hát cao vút của các thiên thần? Cái chết của Các Thánh Anh Hài là cái chết đặc biệt, cái chết của những nạn nhân bé bỏng, vô tội, chưa có ý thức và tự do. Cái chết của những người chưa biết nói, chưa có lòng tin vào Giêsu. Nhưng đây là cái chết vì Đức Giêsu, nên thực sự là cái chết tử đạo. Có bao nhiêu cái chết như thế trên thế giới mỗi ngày. Cái chết không tự nguyện, không tiếng nói phản kháng. Cái chết làm bằng chứng về một giá trị quan trọng bị chối bỏ. Cái chết ấy có thể đưa người ta về với Giêsu.

Thế giới hôm nay vẫn có bao trẻ thơ chết vì bị giết. Có những trẻ thơ chết trong lòng mẹ, chết vì nghèo đói, vì chiến tranh, vì bệnh tật. Có những trẻ em phải nghỉ học để đi làm, bị bóc lột bởi chủ nhân. Có những em bị lạm dụng, bị bỏ rơi, tuổi thơ bị cướp mất. Nơi những em này, ta thấy hình bóng của Các Thánh Anh Hài, và thấy cả khuôn mặt của Hài Nhi Giêsu ngây thơ. Xúc phạm đến trẻ thơ là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Giuse và Mẹ Maria đã bảo vệ Hài Nhi Giêsu an toàn tại Ai Cập. Ai sẽ bảo vệ những trẻ em hôm nay khỏi bao tấn công của cái xấu? Ai sẽ làm gương sáng để các em còn hy vọng? Vẫn có những tiếng khóc của các bà mẹ, vì con bị giựt khỏi tay mình. Lễ Giáng Sinh và lễ các Thánh Anh Hài là lễ của trẻ thơ. Chăm sóc cho trẻ thơ hiện tại là cách xây dựng tốt nhất cho tương lai. Xin Chúa cho chúng ta dám làm một điều gì đó cho các em.

Cầu Nguyện

Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.

Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc. Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.

Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.

Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ. Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình ; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


GƯƠNG MẪU CỦA GIA ĐÌNH NA-GIA-RÉT

(Lễ Thánh Gia Thất)

Gia đình được gọi là mái trường đầu tiên. Mỗi con trẻ được sinh ra trong một gia đình, nơi đó cha và mẹ là những người thầy đầu đời, luôn hiện diện bên cạnh, suốt dọc dài năm tháng. Cha mẹ nâng đỡ hướng dẫn từng bước đi, lời nói...Chỉ bảo trong học tập, đồng hành trong những lúc chơi hay những hoạt động khác... Cha mẹ luôn cố gắng chăm sóc, lo cho con cái đầy đủ. Và như Cha Mẹ Chúa Giê-su, chắc chắn mỗi người cha mẹ trong các gia đình cũng có nhiều lo lắng về con cái của mình, nhưng tình yêu và lòng quảng đại của cha mẹ luôn bất chấp tất cả những bực dọc mà con trẻ gây ra cho mình. Hơn ai hết, Thánh Giu-se và Mẹ Maria trong gia đình Thánh Gia xưa cũng đã từng trải qua những khó khăn thử thách của đời sống gia đình. Thế nhưng, các ngài đã vững vàng vượt qua, sống tin tưởng, mạnh mẽ và mãi mãi là mẫu gương cho các gia đình. Vậy ta sẽ học gì và noi theo điều gì nơi Gia Đình Thánh Gia?

- Đến với mái trường Thánh Gia, chúng ta bắt đầu học biết về Chúa Giê-su và Tin Mừng. Người chính là Thầy dạy và là bài học của ta:

Nơi Hài Nhi Giê-su, ta học nhìn ngắm một trẻ thơ sinh ra trong khiêm hạ, giản dị ; nhìn ngắm cách Người sống, chọn lựa tất cả chỉ vì tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Người không chỉ vâng phục Thiên Chúa Cha, dù là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng Người đã luôn tôn trọng, yêu mến, vâng lời cha Giu-se và mẹ Maria "Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-gia-rét và hằng vâng phục các ngài."(Lc 2, 51a)

Với Chúa Giê-su, ta học lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa trong tâm hồn; nghe và nhận ra thánh ý của Chúa để mau mắn thi hành; nghe tiếng lương tâm chỉ cho ta những điều phải, việc trái; lắng nghe tha nhân trong những nhu cầu tinh thần hay thể xác của họ và đón nghe những sẻ chia khi anh em ta đau khổ, thất vọng...

Cùng Thầy Giê-su, chúng ta học suy tư và nghiền gẫm Lời Thiên Chúa, những điều mầu nhiệm hay mọi biến cố cuộc đời mà chỉ có chính Chúa mới giúp ta hiểu và cảm nhận.

Trong Chúa Giê-su, chúng ta bắt chước Người, họa theo lối sống khiêm nhường và phục vụ, yêu thương và hy sinh hiến thân cho Thiên Chúa, cho tha nhân và nhất là cho những người thân yêu ngay trong gia đình ta.

Học với Thầy Giê-su, qua Tin Mừng Người loan báo dạy dỗ, chúng ta sẽ học được bài học căn bản nhất đó là hiểu biết, nhận ra Người chính là Đức Kitô- Con Thiên Chúa và sẵn sàng bước theo Người, trở thành môn đệ của Người.

- Trong mái trường Thánh Gia Na-gia-rét, chúng ta học với Mẹ Maria bài học thinh lặng.

Đến với Mẹ Maria, chúng ta nhìn ngắm Mẹ từ ngày thiên thần truyền tin. Mẹ đã lắng nghe Lời Thiên Chúa phán với Mẹ, biết đối thoại trong tin tưởng và vâng phục. Nhờ luôn sống trong tỉnh thức và cầu nguyện, Mẹ đã sẵn lòng từ bỏ chương trình riêng, đón nhận chương trình và thánh ý của Thiên Chúa cho cuộc đời Mẹ mà đáp lời Xin Vâng trong phó thác, cộng tác với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại.

Học với Mẹ Maria bài học "Hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng." (Lc 2,51b) Có những lúc Mẹ cũng không thể hiểu thấu kế hoạch của Thiên Chúa và ý Con của Mẹ như trong biến cố lạc mất con, nhưng Mẹ đã luôn giữ sự điềm tĩnh trong mọi hoàn cảnh. Đối thoại khi cần và chỉ vì yêu thương, khôn ngoan nhìn nghe và quả cảm đón nhận trong thinh lặng để rồi Mẹ suy gẫm, nhận ra thánh ý Thiên Chúa và can trường thực thi, cho dầu đó là hiến tế chính con mình làm của lễ đền tội cho nhân loại.

Cùng Mẹ Maria, chúng ta chăm sóc gia đình, những người thân của mình. Chắc hẳn Mẹ đã lo cho các thành viên trong gia đình của Mẹ từng miếng cơm ngon, tấm áo đẹp dù gia đình Thánh Gia nghèo. Chẳng thế mà khi Chúa chịu đóng đinh, lính tráng đã lột áo Chúa Giê-su và tấm áo thật đẹp họ đã bắt thăm để được chứ không xé ra. Không chỉ chăm sóc thể xác mà nhất là về tinh thần, về đời sống cầu nguyện trong gia đình và việc thực hành tôn giáo "Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua."(Lc 2,41) Và chắc chắn rằng Mẹ Maria luôn ở gần Chúa Giê-su, dạy dỗ hướng dẫn Người từ bé thơ đến khi trưởng thành.

- Dưới mái trường Thánh Gia, ta học với Thánh Giu-se bài học lao động và trách nhiệm.

Để nuôi sống người thân trong gia đình, cha là người lao động chính. Thánh Giu-se có một nghề nghiệp để lao dộng và mưu sinh. Tên nghề của Ngài đã gắn kết đến nỗi người ta gọi Chúa Giê-su là con bác thợ mộc. Cùng với thánh Giu-se, qua công việc lao động để nuôi sống bản thân và gia đình, chúng ta muốn cộng tác vào công trình hoàn thiện thế giới và cứu độ nhân loại. Qua lao động, ta nhận ra những giá trị của sức khỏe, của đồng tiền, của thức ăn...và ta biết quí trọng, biết sử dụng một cách đúng đắn, biết tiết kiệm và biết chia sẻ với tha nhân. Chúng ta cũng yêu mến , tôn trọng tất cả những người lao động và cùng nhau noi theo mẫu gương lao động của chúng ta là thánh Giu-se. Nghề cao sang và bình thường cũng vẫn là một công việc để phục vụ, mưu cầu lợi ích cho mình, cho gia đình và cho xã hội nên cần phải được quí trọng.

Để giữ cho gia đình vững vàng và vượt qua được những lúc sóng gió tăm tối...Người gia trưởng Giu-se đã sẵn sàng nghe theo tiếng Chúa và thực hành cho dẫu là khó khăn gian khổ về phần mình. Thánh Giu-se đã vâng phục cộng tác vào chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa trong những biến cố của cuộc đời Chúa Giê-su. Với tinh thần trách nhiệm và trên hết là yêu thương, cha Giu-se đã lo lắng cho Chúa Giê-su và Mẹ Người: Tìm chỗ trọ...Đưa Chúa Giê-su và Mẹ Maria đi trốn đang đêm...

- Mừng lễ Thánh Gia Thất, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho mỗi chúng ta một gia đình. Gia đình ta có khi chưa phỉ là mái ấm, gia đình ta có lúc còn thiếu yêu thương và chia sẻ, cảm thông. Gia đình ta có thể còn chưa sống tình gia đình và mối dây ruột thịt gắn kết... Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa liên kết gia đình chúng ta bằng chính tình yêu của Người, và trong Chúa Giê-su- Đấng Emmanuel, xin Chúa ở giữa gia đình chúng ta, sống cùng và điều khiển cuộc sống chúng ta theo thánh ý Người và đẹp lòng Người. Chúng ta cũng hãy tích cực học nơi gia đình Thánh gia mẫu gương sống tình gia đình, sống yêu thương nhau và sống kính mến Chúa, sống có trách nhiệm với nhau để cùng nhau xây dựng những gia đình tốt, mạnh mẽ, xứng đáng là gia đình Kitô hữu như lời vị cha chung cầu mong: "gia đình hãy là những gương mẫu của tình yêu, của sự tha thứ và lòng quan tâm. Hãy là những thánh địa của sự tôn trọng đối với sự sống khi công bố sự thánh thiêng của mỗi mầm sống con người từ khi thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên. Thật là một ân huệ lớn lao cho xã hội nếu mỗi gia đình Kitô hữu sống tràn đầy ơn gọi cao quí của mình!" ( Trích bài diễn văn của ĐTC Phanxicô với các gia đình tại Manila)

Lạy Thánh Gia Na-gia-rét, xin cầu bầu và che chở cho tất cả các gia đình chúng con trong thời đại hôm nay, nhất là nhiều những gia đình đã và đang tan vỡ, rạn nứt.Amen

Dã Quỳ


CÁC TIN KHÁC

SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 25-12-2015
SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 25-12-2015

Tin Mừng trọng đại

(24.12.2015 – Lễ Chúa Giáng Sinh – Lễ đêm)
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ, làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2). Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống, chấp nhận thân phận hữu hạn của con người. Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn. Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ. Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng. Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét. Ngài cũng không được chào đời nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem. Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7). Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời. Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật. Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm? Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa. Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không? Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không? Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ. Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ. Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa. Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya, ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại. Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!

SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - 20-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - 20-12-2015

Thiên Chúa viếng thăm
(Ngày 24.12.2015 – Trước Lễ Giáng Sinh)
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày, lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng. Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68). Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77). Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76). Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông. Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một. Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69). Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78). Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79). Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77), là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG 13-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG 13-12-2015

Chuẩn bị sẵn sàng

(19.12.2015 – Thứ Bảy Trước Lễ Giáng sinh)
Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa. Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét đã sống với nhau bao lâu mà không có con. Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7). Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm. Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ, dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6). Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG 06-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG 06-12-2015

ĐAU KHỔ VÌ SỨ VỤ
(12.12.2015 – Thứ Bảy Tuần 2 Mùa Vọng)

Nếu có phải liên lụy đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa và sứ mạng được trao. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG 29-11-2017
SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG 29-11-2017

Chạnh lòng thương
(6.12.2015 – Thứ bảy Tuần 1 Mùa Vọng)

Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người. Thiên Chúa của Ítraen có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ. Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người. Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19). Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21). Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng. Ngài làm cho mưa thuận gió hòa, cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy. Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực, súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê, bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24). Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.

Top