Đăng vào: 18:12 NGÀY 19/12/2015 Số lượt xem: 2305
Thiên Chúa viếng thăm
(Ngày 24.12.2015 – Trước Lễ Giáng Sinh)

Lời Chúa: Lc 1, 67-79
Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.
Từ dòng dõi trung thần Đa-vít,
Người đã cho xuất hiện
Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa:
sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét;
sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
và nhớ lại lời xưa giao ước;
Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham
rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
và cho ta chẳng còn sợ hãi,
để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,
mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu
là ngôn sứ của Đấng Tối Cao:
con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,
bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ
là tha cho họ hết mọi tội khiên.
Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và trong bóng tử thần,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình an”.
Suy Niệm
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày,
lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng.
Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel
vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68).
Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng
được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77).
Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76).
Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông.
Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một.
Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69).
Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa,
Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78).
Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết
và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79).
Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77),
là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).
Cả đời sống Đức Giêsu là một cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Đây là cuộc viếng thăm độc nhất vô nhị,
vì là cuộc viếng thăm của đích thân Con Thiên Chúa.
Ngài không chỉ thăm như người khách ghé qua.
Ngài đã thăm và ở lại, dựng lều cư ngụ với loài người (Ga 1, 14).
Khi Đức Giêsu hoàn sinh người con của bà góa thành Nain,
đám đông reo lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài (Lc 7, 16).
Nhưng trong thực tế dân Ngài đã khước từ cuộc thăm viếng ấy.
Ngôi Lời đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 11).
Mãi mãi con người có tự do để ở lại trong bóng tối và sự chết,
và cũng có quyền khước từ bình an thật của trời cao (Lc 19, 42).
Giêrusalem đã bị sụp đổ vào năm 70 dưới tay kẻ thù,
vì đã từ khước sự thăm viếng chở che của Thiên Chúa (Lc 19, 44).
Đó là một bi kịch và hơn nữa, là một thảm kịch.
Tiếc thay thảm kịch ấy vẫn tiếp diễn trên thế giới.
Hôm nay Thiên Chúa từ ái, bao dung vẫn đến thăm con người,
và nhiều người trong chúng ta vẫn giữ thái độ chối từ, khép kín.
Ơn cứu độ, ơn giải phóng, ánh sáng, và bình an của trời cao,
là những điều còn xa lạ với bao người, kể cả các Kitô hữu.
Bóng tối của sự chết, của hận thù ghét ghen vẫn thống trị địa cầu.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng cuộc viếng thăm của Thiên Chúa.
Cách duy nhất để mừng là mở cửa lòng cho Con Thiên Chúa vào.
Hãy tiếp đón Ngài đến với ta dưới những hình thái bất ngờ:
một trẻ thơ nghèo hèn, yếu đuối; một Mêsia không tấc sắt trong tay;
một ông thợ mộc ở vùng quê Nadarét; một tử tội bị đóng đinh thập tự.
Hãy thắp lên một ngọn nến trong đêm Noel để chào mừng Ánh Sáng.
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Tên cháu là Gioan
(23.12.2015 – Trước Lễ Giáng Sinh, Thứ Tư)
Lời Chúa: Lc 1, 57-66
Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả”. Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gioan”. Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Ðứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?” Và quả thật có bàn tay Chúa phù hộ em.
Suy Niệm
Vào trước lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu,
Giáo Hội cho chúng ta suy niệm về sự chào đời của Gioan Tẩy giả.
Có vẻ bà Êlisabét là người vui hơn cả.
Bà đã mang nỗi hổ nhục từ bao năm nơi người đời (Lc 1, 25),
bây giờ bà mới thấy rõ lòng thương xót bao la của Chúa (c. 58).
Niềm vui của bà được tăng lên nhờ láng giềng, thân thích đến thăm.
Thiên Chúa bắt bà chờ quá lâu, đến mức bà chẳng còn hy vọng.
Rồi bất ngờ bà lại được tất cả những điều mình mong ước.
Có một đứa con trai lúc đã cao niên, điều đó kể như một phép lạ.
Khi bà khăng khăng đòi đặt tên cho đứa con là Gioan (c. 60),
nhiều người ngăn cản, vì không ai trong dòng tộc mang tên này,
vì cứ sự thường, con phải được đặt tên theo tên cha.
Nhưng quyết định cuối cùng nằm trong tay ông Dacaria.
Ông mới là người có quyền đặt tên cho con trai ông.
Vì ông câm và điếc, nên ông cần một cái bảng nhỏ để ghi tên con.
“Tên cháu là Gioan” (c. 63).
Tên này trùng với tên vợ ông đề nghị.
Chính lúc Dacaria vâng lời sứ thần đặt tên cho con ông là Gioan,
thì lập tức miệng ông được mở ra và lưỡi ông được tháo cởi (c. 64).
Giờ đây ông có thể chúc tụng Thiên Chúa sau hơn chín tháng bị câm.
Những người thân thích, xóm giềng đi từ ngỡ ngàng đến kinh sợ.
Quả thực có nhiều điều lạ lùng vây quanh sự chào đời của cậu bé.
Người ta đồn thổi tin này khắp miền núi Giuđê.
“Đứa trẻ này rồi sẽ ra sao?” (c. 66).
Làm sao biết tương lai của đứa trẻ mới được tám ngày tuổi.
Nhưng qua những biến cố lạ lùng xảy ra:
ông bà sinh con trong lúc tuổi già, ông bị câm rồi lại được khỏi,
ông bà cùng nhất trí về tên của đứa con dù không trao đổi trước,
người ta nhận ra bàn tay Chúa ở với em (c. 66).
Em đúng là Gioan, tiếng Híp-ri nghĩa là Thiên-Chúa-tặng-ban,
bởi em là quà tặng cho gia đình, dân tộc và cho cả nhân loại.
Cậu bé Gioan đã từ từ lớn lên và theo một lối sống khác thường.
Cậu không lập gia đình và sống khắc khổ nơi hoang địa (c. 80).
Lễ Giáng Sinh là lễ của trẻ thơ, của niềm hy vọng.
Mỗi trẻ thơ chào đời đều là một dấu hiệu của tình thương Chúa.
Ngay một cuộc sinh nở bình thường cũng là một điều lạ lùng.
Mỗi trẻ thơ được cha mẹ đặt tên,
nhưng tên của em đã được khắc ghi từ lâu trong trái tim Thiên Chúa.
Em nào cũng là một quà tặng cho thế giới, em nào cũng là một Gioan.
Mỗi em đều có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa.
Nhiệm vụ của nhà giáo dục là giúp em tìm thấy ơn gọi riêng của mình,
và trưởng thành nhờ sống trọn vẹn ơn gọi đó.
Xin được chung vui với gia đình Dacaria và mọi gia đình trên địa cầu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
con được no nê mà vẫn thiếu ăn,
vì bên con còn có người đói lả.
Con uống nước mát mà họng vẫn khô ran,
vì bên con còn có người đang khát.
Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi,
vì bên con còn có người phiền muộn.
Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm,
vì bên con còn có người mù tối.
Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi,
vì bên con còn có người trần trụi.
Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,
vì bên con còn có bao người thiếu thốn.
(Myrtle Householder)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Nữ tỳ hèn mọn
(22.12.2015 – Trước Giáng Sinh, Thứ Ba)
Lời Chúa: Lc 1, 46-56
Bấy giờ bà Maria nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
Ðời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời.
Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Suy Niệm
Bài ca ngợi khen Đức Chúa bật ra trên môi Maria
sau khi bà Êlisabét cất tiếng ca ngợi Mẹ.
Êlisabét ca ngợi Maria là người được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
vì Mẹ đang cưu mang trong dạ Đấng Cứu Tinh.
Bà còn ca ngợi Maria có phúc vì đã dám tin vào lời Chúa phán,
và dám liều để cho lời ấy dẫn dắt đời mình.
Nhờ được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét mới biết được Tin Vui
mà Maria tưởng rằng đó là bí mật chỉ riêng mình biết.
Khi đứng trước bà chị cao niên đang mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần nói,
và vào mầu nhiệm đang âm thầm lớn lên nơi cung lòng mình.
Khi bà chị Êlisabét ca ngợi Mẹ, thì Mẹ hân hoan ca ngợi Thiên Chúa.
Maria nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Độ của Mẹ (c. 47.)
Nếu Mẹ được đầy ân sủng, được Chúa ở cùng và được đẹp lòng Ngài,
nếu Mẹ được thụ thai Con Đấng Tối Cao nhờ Thánh Thần (Lc 1, 28-35),
thì đó không phải là do công của Mẹ, nhưng là ơn của Chúa.
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả” (c. 49).
Maria không có một sự khiêm nhường giả tạo về mình.
Khiêm nhường thực sự là nhìn nhận sự thật.
Mẹ nhìn nhận những điều độc nhất vô nhị Chúa làm cho đời mình.
Ngài đã nhìn xuống đời Mẹ, cuộc đời thấp hèn của một tỳ nữ.
Và cái nhìn cúi xuống của Ngài đã nâng Mẹ lên cao,
khiến cho muôn thế hệ phải ngợi khen, tôn kính (c. 48).
Nhưng Maria không phải là người duy nhất được Thiên Chúa thi ân.
Ngài thương xót những ai hèn mọn, đói nghèo, biết kính sợ Chúa.
Ngược lại, Ngài giơ cánh tay biểu dương sức mạnh (cc. 50-53),
để dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi đi kẻ giàu sang.
Thiên Chúa đầy thương xót, nên cũng mạnh tay để tạo lại sự công bằng,
để đem lại sự no đủ cho người nghèo và sự tự do cho người bị áp bức.
Thiên Chúa ấy cũng trung tín giữ lời hứa với Dân Ítraen (cc. 54-55).
Maria đã ở lại với bà chị họ độ ba tháng mới trở về nhà.
Ba tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ trẻ đâu có dễ.
Maria đã ở lại để phục vụ cho bà Êlisabét gần ngày sinh.
Mẹ quên gánh nặng của mình để mang gánh nặng của người khác.
Êlisabét hẳn là vui vì được hầu hạ bởi Thân Mẫu Chúa.
Gioan trong bụng mẹ sung sướng vì được gần Đấng Thiên Sai.
Ít khi ta suy niệm chuyện Đức Maria mang thai hơn chín tháng.
Thai Nhi Giêsu lớn dần lên từng ngày trong dạ mẹ, chờ ngày chào đời.
Tình Mẹ-Con cũng lớn lên, thân thiết, gần gũi.
Mang thai và sinh con là niềm vui, nhưng đòi bao hy sinh nhọc nhằn,
nhất là vào thời xưa, khi vệ sinh và tiện nghi không có.
Để sinh Đức Giêsu cho thế giới hôm nay, vẫn cần có những Maria
chấp nhận cưu mang, chấp nhận vượt cạn,
chấp nhận kiên nhẫn chờ đợi để sinh những Giêsu cứng cáp cho thế giới.
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi
(21.12.2015 – Trước Giáng Sinh)
Lời Chúa: Lc 1, 39-45
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Suy Niệm
Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu Nguyện
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Những Cách Viếng Thăm
CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG C
Sống ở đời “Không ai là một hòn đảo”, vì con người sống là sống cùng sống với và sống cho. Chính vì vậy, viếng thăm nhau không chỉ là chuyện bình thường trong cuộc sống mà còn để chu toàn bổn phận và thể hiện lòng bác ái yêu thương. Có nhiều cách viếng thăm. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm gương viếng thăm của Đức Maria. Từ đó, chúng ta suy ngắm gương viếng thăm của Đức Giêsu và gần đây là gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Cuối cùng, chúng ta tìm hiểu một chút về những cuộc thăm viếng của con người hôm nay để rút ra những bài học cho bản thân.
Thứ nhất, gương viếng thăm của Đức Maria
Khi nghe tin bà Êlizabét, người họ hàng với mình, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai được sáu tháng (x. Lc 1,36). Đức Mẹ nghĩ rằng: Tuổi già là tuổi cần chăm sóc giúp đỡ. Hơn nữa, tuổi già mà còn mang thai thì lại cần phải chăm sóc hơn. Chính vì vậy, Mẹ đã “vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ. Sau cuộc hành trình dài đầy gian nan, Mẹ đã gặp được bà Êlizabét. Đây là cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử, vô tiền khoáng hậu. Sáu tháng nay, bà Êlizabét sống trong niềm vui mừng. Chắc chắn hằng ngày không ngớt dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì đã cất nỗi khổ nhục son sẻ của hai ông bà, đã cho bà cưu mang con trong tuổi già. Nay niềm vui đó được nhân lên vì có Đức Maria đến viếng thăm. Ngoài Mẹ ra, còn có Chúa Giêsu mà Mẹ đang cưu mang trong lòng. Bà Êlizabét đã nhận ra điều đó khi đứa con trong lòng mình “nhảy mừng”. Bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện"(Lc, 43,45).
Hiệu quả của cuộc viếng thăm này vô cùng to lớn: Đem niềm vui đến cho cả gia đình ông Giacaria; Thánh Gioan được khỏi tội tổ tông truyền ngay từ trong lòng Mẹ; bà Êlizabét được Mẹ giúp đỡ trong những ngày thai nghén sinh nở. Tinh thần thăm viếng không dừng lại ở đó, Mẹ vẫn tiếp tục thăm viếng con người. Đáng kể nhất là cuộc thăm viếng tại tiệc cưới Cana: Mặc dầu giờ chưa đến nhưng nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành rượu ngon để làm vui lòng gia đình chủ tiệc. Khi đã về trời, Mẹ cũng không ngừng viếng thăm nhân loại. Đó là những cuộc viếng thăm: Ở Lộ Đức năm 1858; tại Lavang năm 1798; ở Fatima năm 1917. Và rất nhiều cuộc viếng thăm khác của Mẹ nhằm mục đích thi ân giáng phúc cho con cái loài người.
Thứ hai, gương viếng thăm của Đức Giêsu
Vâng lệnh Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế mang thân phận của một con người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã đi khắp mọi nơi, gặp gỡ mọi người: Đến với miền Samari; miền duyên hải Tirô-Siđôn; miền Ghêrasa. Đối tượng viếng thăm của Ngài là phổ quát: Ngài đến với những người tội lỗi; với những người bệnh tật; với những người có chức quyền danh vọng. Ngài đến với họ để mong muốn biến đổi họ: Một Lêvi trở thành Mathêu Tông đồ; một Giakêu người thu thuế trở thành người biết cho đi; một Maria Mađalêna tội lỗi trở thành một vị thánh. Nhờ những cuộc viếng thăm của Ngài, những người bệnh hoạn tật nguyền trở thành những người khoẻ mạnh: Người mù thấy được; người què đi được; người điếc được nghe; người bệnh được khỏi. Nhờ Ngài viếng thăm mà con trai bà goá thành Naim, con gái ông Giaia và ông Lazarô chết rồi được sống lại.
Không thể kể hết ra đây những hiệu quả mà những cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mang lại cho con người. Ngài viếng thăm ai là biến đổi cuộc đời của họ trong niềm vui và sự bình an.
Thứ ba, gương viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô
Tiếp tục tinh thần của Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Giáo hội qua mọi thời đại vẫn đến với muôn dân. Gần đây nhất phải kể đến những cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài đã đi khắp nơi, đến với mọi hạng người: Đến với những người vô thần; đến với những người Do thái giáo; đến với những người Anh giáo; đến với những người Hồi giáo; đến với những người Chính thống giáo; đến với tù nhân; đến với những người tị nạn; đến với những người nghèo; đến với những người thất nghiệp; đến với các bệnh nhân. Ngài đến để đem niềm vui và trao ban tình thương cho họ. Tình yêu thương của Ngài đã chạm đến trái tim từng người mà Ngài gặp gỡ. Xin được trích dẫn một bằng chứng: “Tờ Washington Post, xuất bản tại Hoa Kỳ, trong số đề ngày 6 tháng 11 năm 2013, nữ ký giả Elizabeth Tenety đã viết bản tin có tựa đề Đức Giáo Hoàng Phanxicô ôm một người đàn ông có dị tướng tại quảng trường thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã âu yếm ôm hôn người tật bệnh này vào cuối buổi triều yết chung, ngày thứ Tư 6 Tháng 11 năm 2013. Bệnh nhân có diện mạo và thân thể rất kỳ dị đáng thương đến nỗi nhiều người cho rằng ông ta không còn có hình dạng con người. Ký giả tờ Washington Post viết rằng: Nếu phải dùng từ ngữ thì cần cả ngàn từ mới diễn tả được ý nghĩa Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn người dị tật đã nhanh chóng được phổ biến trên các mạng lưới xã hội và nhiều cơ quan thông tấn quốc tế đã đưa bản tin đặc biệt này. Hình ảnh Đức Thánh Cha ôm hôn và cầu nguyện cho người dị tật làm nhiều người tưởng nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu đã chữa những người phong cùi, và thánh Phanxicô Assisi đã săn sóc người tật bệnh nghèo đói”(Theo Nguyễn Long Thao).
Ông cho biết việc gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô “như ở trên Thiên Đàng vậy” và cuộc gặp gỡ này là khởi điểm mới của cuộc đời ông. Người đàn ông bất hạnh nhưng có phước này bày tỏ cảm nhận của mình khi được chính vị giáo hoàng ôm lấy như sau:
“Đôi tay của ngài hết sức mềm dịu. Và nụ cười của ngài rất ư là tươi nở. Thế nhưng cái đánh động tôi nhất đó là việc ngài không lưỡng lự về việc có nên ôm lấy tôi hay chăng. Tôi không gây lây nhiễm, nhưng ngài đâu có biết như thế. Ngài chỉ biết làm điều ấy thôi: ngài đã ve vuốt cả khuôn mặt của tôi và khi ngài làm thế thì tôi chỉ cảm thấy rằng mình được yêu thương. Trước hết ngài đã hôn lấy bàn tay của tôi, trong khi bàn tay kia của ngài mơn trớn đầu tôi và các vết thương của tôi. Sau đó ngài kéo tôi vào mà ôm chặt lấy tôi, hôn lên gương mặt của tôi. Đầu của tôi dựa vào ngực của ngài, hai cánh tay của ngài ôm choàng lấy tôi. Điều này kéo dài hơn một phút, nhưng đối với tôi nó dường như là vô tận” (Theo Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phóng dịch theo http://www.zenit.org/en/articles/severely-disfigured-man-embraced-by-pope-gives-interview).
Thứ tư, những cuộc viếng thăm của con người hôm nay
Họ viếng thăm nhau bằng nhiều cách: Có những cuộc viếng thăm để khử trừ nhau. Có những cuộc viếng thăm vì ngoại giao. Có những cuộc viếng thăm chỉ vì lợi ích phe nhóm. Có những cuộc viếng thăm vì lợi ích của bản thân mình: Vì tiền bạc; vì chức quyền danh vọng; vì tình cảm ngang trái. Có những cuộc viếng thăm vì bổn phận. Có những cuộc viếng thăm vì tình yêu thực sự: Thăm viếng bệnh nhân; thăm viếng người tù tội; thăm viếng cha mẹ già yếu; thăm viếng người tàn tật, neo đơn; thăm viếng những người cần sự thăm viếng để động viên, yên ủi và giúp đỡ họ.
Với chúng ta hôm nay, chắc chắn Chúa muốn chúng ta noi gương Đức Maria, Đức Giêsu và Đức Thánh Cha Phanxicô. Đối tượng viếng thăm của chúng ta phải là phổ quát. Những cuộc thăm viếng của chúng ra phải phát xuất từ tình yêu thực sự. Chúng ta là hiện thân của Chúa để đem niềm vui và bình an đến với mọi người. Nói về vấn đề này, tôi sực nhớ tới câu chuyện ấn tượng trong cuộc đời mục vụ của tôi: Có ông cụ nọ, trạc tuổi 80. Dù tuổi cao, lại bị bệnh nằm liệt giường nhưng ông cụ vẫn còn minh mẫn. Mỗi lần thấy tôi đến viếng thăm, ông cụ đều cất tiếng chào: Kính chào Chúa Giêsu. Ông còn giải thích cho mọi người hiểu: Cha là Chúa. Lời ông cụ giúp tôi tự nhắc nhủ mình rằng: Tôi phải thực sự là hiện thân của Chúa khi đến với anh chị em mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết ra khỏi chính mình để đến với anh chị em xung quanh. Xin cho những cuộc viếng thăm của chúng con không phải vì tiền bạc, của cải, danh vọng nhưng đem niềm vui và tình thương của Chúa đến với mọi người. Để những cuộc viếng thăm của chúng con thực sự là hiện thân của Chúa với những người chúng con gặp gỡ. Amen
Lm. Anthony Trung Thành