CỘNG ĐOÀN CHÚA KITÔ PHỤC SINH

TRUNG TÂM ĐỨC BÀ PHÙ HỘ CÁC GIÁO HỮU

1616 Pyrenees Avenue - Stockton, CA 95210

SUY NIỆM CN XXXII TN - 08-11-2015

Đăng vào: 04:11 NGÀY 07/11/2015        Số lượt xem: 3121

Không được nản chí

(14.11.2015 – Thứ bảy Tuần 32 Thường niên)

Lời Chúa: Lc 18, 1-8
1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2 Người nói : "Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : 'Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.' 4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng : 'Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.'"

6 Rồi Chúa nói : "Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó ! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi ? 8 Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?"

Suy Niệm

Một trong những lý do khiến người ta bỏ cầu nguyện, đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa. Con người bị áp bức, khổ đau, nên kêu gào lên Chúa, nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ dường như chẳng được nghe. Thiên Chúa có hiện hữu không? Nếu Ngài có mặt, sao Ngài không cứu giúp ta ra khỏi nỗi quẫn bách? Đã có bao lời cầu nguyện từ sáu triệu người Do thái trước khi họ bị quân Đức quốc xã giết hại dã man. Họ kêu lên cùng Chúa là Đấng đã giải thoát tổ tiên họ khỏi cảnh nô lệ. Nhưng tại sao bây giờ Ngài lại lặng yên, để sự dữ lộng hành?

“Phải cầu nguyện luôn luôn và không được nản chí” (c. 1). Không nên thấy Thiên Chúa lặng thinh mà vội bỏ cuộc. Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về sự kiên trì của một bà góa. Bà chẳng còn chỗ dựa tinh thần và vật chất nơi người chồng. Thiếu sự chở che của chồng, bà dễ bị người khác đối xử bất công. Chính vì thế bà đã nhiều lần đến vị quan tòa để đòi hỏi công lý. Tiếc thay vị quan tòa lại không phải là người tốt. “Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (c. 2). Thế nên vụ kiện cứ bị ngâm trong một thời gian khá lâu. Nhưng bà góa này quyết không nản lòng, cứ quấy rầy vị quan tòa. Cuối cùng, ông ta đành giải quyết, chỉ vì muốn yên chuyện (c. 5). Thiên Chúa dĩ nhiên khác hẳn viên quan tòa bất chính trên đây. Ngài không trì hoãn việc xét xử, nhưng sẽ mau chóng trả lại công lý cho những kẻ ngày đêm kêu lên Ngài (cc. 7- 8). Thiên Chúa không nhậm lời chúng ta để tránh bị quấy rầy hay rắc rối, nhưng vì Ngài là Đấng Công Chính biết lắng nghe tiếng kêu than.

Trong thế giới hôm nay, sự dữ vẫn làm mưa làm gió. Bóng tối như nuốt chửng ánh sáng, sự ác có vẻ mạnh mẽ hơn sự thiện. Vẫn có những bà góa neo đơn phải chịu cảnh bất công. Vẫn có những phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và lạm dụng. Đức tin người Kitô hữu có thể bị xao động khi nhìn vào thế giới.

Nhiều khi con người cảm thấy mình yếu đuối và bất lực. Hãy cầu nguyện luôn, hãy kêu lên Chúa đêm ngày! Đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa (c. 8), dù tiếng kêu của những người thấp cổ bé miệng vọng lên trời cao vẫn chưa có tiếng trả lời ngay lập tức. Cuộc chiến với những bất công trên thế giới còn kéo dài. Người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa cho sứ vụ ấy. Chúng ta cần có sự hỗ trợ từ trời, để hoán cải lòng người từ bên trong, để xây dựng một thế giới mới. Kiến tạo một trái đất công bằng và bác ái, đó là ước mơ của Thiên Chúa và cũng là ước mơ của chúng ta. Xin Ngài ra tay hành động mạnh mẽ, nhưng xin cho chúng con trở nên khí cụ hữu hiệu để tay Ngài dùng.

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Được đem đi, bị bỏ lại

(13.11.2015 – Thứ sáu Tuần 32 Thường niên)

Lời Chúa: Lc 17, 26-37
26 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : "Cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. 27 Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thuỷ ập tới, tiêu diệt tất cả. 28 Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót : thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. 29 Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. 30 Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.

31 "Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. 32 Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33 Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. 34 Thầy nói cho anh em biết : đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 35 Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36 Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại." 37 Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su : "Thưa Thầy, ở đâu vậy ?" Người nói với các ông : "Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó."

Suy Niệm

Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada. Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á. Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng, cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh. Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng. Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh. Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ. Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra. Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý. Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết. Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay. Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống?

Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ, vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi. Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại. Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức. Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi. Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào, người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến. Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ. Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội. Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn. Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả, có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra. Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê, khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.” Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy. Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời, thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán, họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28). Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại. Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường. Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng. Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo. Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè.

Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới. Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35), nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau. Có người được đem đi, có người bị bỏ lại. Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)? Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao ; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


|

Nước Thiên Chúa

(12.11.2015 – Thứ năm Tuần 32 Thường niên)

Lời Chúa: Lc 17, 20-25
20 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được.21 Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! hay “Ở kia kìa! , vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”22 Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy.23 Người ta sẽ bảo anh em: “Người ở kia kìa! hay “Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy theo.24 Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người.25 Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.

Suy Niệm

Từ sau khi dân Ítraen định cư ở đất Canaan, Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc. Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Ítraen để lãnh đạo và chăm sóc họ. Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Ítraen như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa. Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng. Trải qua bao triều vua của nước Ítraen, bao thịnh suy của đất nước, từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia. Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.

“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21). Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến. Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20). Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ. Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu. Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha, khi con người biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu, khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.

Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa. Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian. Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên, như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng, Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn. Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt. Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm để Nước đó được nhìn nhận bởi hơn 6 tỷ người trên trái đất. Ngày nào thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công, ngày nào nhân loại còn bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất, ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu. Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu, chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người, nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.

Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10). Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian. Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, chúng ta còn bề bộn công việc phải làm. Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt. Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta. Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng. Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời. Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất. Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui quy tụ mọi người từ bốn phương, xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới : Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình. Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.

Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J


Lời tạ ơn

(11-11-2015 -Thứ Tư Tuần XXXII Thường Niên)

Lời Chúa: Lc 17,11-19
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
(Nguồn: Ủy ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

"Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa." (Lc 17,15)

Suy niệm:

A- Phân tích (Hạt giống...)

1. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Phúc Âm này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.

2. Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:

- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay

- Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.

3. 9 người cùi Do Thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.

B- Suy gẫm (... nẩy mầm)

1. Cám ơn là gì? Điểm đáng chú ý là Thánh Luca không ghi lại lời cám ơn của Người Samari cho nên chúng ta không biết anh ta đã nói gì. Nhưng Thánh Luca ghi khá tỉ mỉ thái độ của anh ta: anh “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinhThiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài”. Thực ra nói cám ơn Chúa thì chúng ta đã nói nhiều. Nhưng lòng biết ơn thực còn xuất phát từ sựnhận thấy tình thương Chúa, thức đẩy ta quay trở lại với Chúa, thôi thúc ta tôn vinhChúa và sấp mình thờ lạy Chúa nữa.

2. Hai tiếng “cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa:

- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.

- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.

Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn tớ...

Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn “người nhà”? (Frank Mihalic)

3. Ta quen nghĩ đến mình và quên nghĩ tới người, nhất là trong những lúc quá mừng, quá lo (những ngày đại tiệc, dễ quên cám ơn những người phục vụ bếp núc đã vất vả cho buổi lễ của ta).

4. Người Á Đông chúng ta có thói quen trọng sự biết ơn: Biết ơn ông bà tổ tiên, Đạo ông bà… Nhưng cũng nên đề phòng thái độ biết ơn chỉ ngừng lại ở phạm vi công bằng, biết điều, ‘ơn đền; oán trả’, và đi đến chỗ phải mau lo đền ơn để rũ nợ cho sớm.

5. Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi:

- Thưa ông, ông vừa nói gì thế?

- Tôi có nói gì đâu.

- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)

6. Các tâm tình tạ ơn gương mẫu: - Magnificat - Benedictus - Nunc dimmittis - Thánh Lễ (Eucharistie).

7. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15)

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con luôn biết nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. (Hosanna)

(Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Với lòng cảm mến tri ân, chúng con xin nghiêng mình thờ lạy, ngợi khen Chúa là Thiên Chúa, là Ðấng ban phát mọi ơn lành. Chúa đã ban cho chúng con sự sống và muôn vàn hồng ân khác. Chúa đã ban cho chúng con niềm vui qua tha nhân, bạn bè luôn yêu thương, nâng đỡ chúng con. Xin giúp chúng con biết sống đền đáp ân tình của Chúa, bằng việc dâng lời tạ ơn Chúa và sống theo giáo huấn của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu mến yêu, hai chữ cám ơn nhau thật cần thiết cho tương quan giữa người với người. Hai chữ cám ơn nối kết người cho và người nhận nên một niềm vui ngọt ngào của hoa trái yêu thương. Nhưng Chúa ơi, sao chúng con lại hẹp hòi hai tiếng cám ơn với những người thân của chính mình. Chúng con ngại cám ơn về những vất vả ngược xuôi, cùng bao mưa nằng trong đời mà cha mẹ dành cho chúng con. Chúng con vô tâm trước những hy sinh, cống hiến của cha mẹ, của vợ chồng, anh em bè bạn đang hy sinh vì chúng con. Chúng con xem đó là bổn phận mà quên rằng bổn phận đó họ đã làm vì yêu mến chúng con. Xin dạy chúng con biết tri ân nhau ngay trong những điều nhỏ nhất nhất, biết cám ơn nhau ngay trong những việc tầm thường hằng ngày. Xin cho chúng con luôn mau mắn nói lời cám ơn với những ai đang hy sinh vì chúng con.

Và trên hết, xin cho chúng con đừng bao giờ lãng quên tình Chúa, nhưng luôn biết tri ân và cảm tạ tình yêu Chúa trong suốt cuộc đời chúng con. Xin cho cuộc đời chúng con luôn là bài ca dâng hiến để tạ ơn về những ơn lành Chúa ban. Amen.

(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)


Đầy tớ vô dụng

(10.11.2015 – Thứ ba Tuần 32 Thường niên)

Lời Chúa: Lc 17,7-10
7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó : 'Mau vào ăn cơm đi', 8 chứ không bảo : 'Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !' ? 9 Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? 10 Đối với anh em cũng vậy : khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."

Suy Niệm

Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng. Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21). Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bị bắt làm nô lệ ở Ai-cập, và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do. Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn. Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27). Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ. Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ, năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2). Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).

Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ. Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos). Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công. Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ. Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì. Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.

Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ. Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi, nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước. Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc, sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7), liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối với mình không? Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không. Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối. Khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi, thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn, thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8). Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống. “Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?” Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không. Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ. Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ. Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.

Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay, những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ. Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29). Chúng ta làm điều phải làm (c. 10), nhưng không như người làm công chờ lương, cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ. Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62), chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27). Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng, không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả. Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm, siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức, đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.

Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn. Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7). Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27). Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).

Cầu Nguyện

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Tôi sẽ xây dựng lại

(9.11.2015 – Thứ Hai – Cung hiến Thánh đường Latêranô)

Lời Chúa: Ga 2,13-22
13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu : "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.

18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su : "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?" 19 Đức Giê-su đáp : "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." 20 Người Do-thái nói : "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao ?" 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.

Suy Niệm

Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô. Ðây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh, là nhà thờ chính toà của Ðức Thánh Cha, giám mục Rôma, là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới. Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà để dành riêng cho việc phụng tự. Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa, thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu. Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ. Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại, mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.

“Hãy phá hủy Ðền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Ðức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem. Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài, thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại, thân thể bị giết chết và được phục sinh. Ðức Giêsu phục sinh trở nên Ðền Thờ của Giao Ước mới. Ai ai cũng được mời gọi bước vào Ðền Thờ này. Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.

Hội Thánh cũng được ví như một Ðền Thờ thiêng liêng, mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8), và Ðức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11). Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định “Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh em” (1Cr 3,17). Hơn thế nữa, ngài còn nói: “Thân xác anh em là Ðền Thờ của Thánh Thần” (1Cr 6,19) Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Ðền Thờ. Ðền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy. Ðền thờ là những con người sống động. Ðền thờ quan trọng nhất là con người Ðức Giêsu phục sinh, một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần. Mọi Ðền thờ đều phải qui về Ðền thờ đó. Không gắn bó với Ðấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài, chẳng Ðền thờ nào là Ðền thờ thực sự.

Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán, Ðức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha. Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy, vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều. Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa. Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ. Nhà thờ đầu tiên là con người tôi. Xin Ðức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần, cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế. Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa để Hội Thánh thật sự là Ðền thờ, nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Ðền thờ của Chúa.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa. Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa. Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước, đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên. Ước gì Hội Thánh trở nên men được vùi sâu trong khối bột loài người để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh. Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước, nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời, nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian, nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


BỎ VÀO TẤT CẢ

Khó lòng nhận ra đồ giả trong các món hàng. Ta thường đánh giá một sản phẩm dựa trên mẫu mã, nên dễ bị đánh lừa về chất lượng. Thật ra đồ giả cũng có ở nơi con người. Làm cho mình trẻ hơn nhờ trang điểm, tốt hơn nhờ ăn nói. Làm cho mình co dáng trí thức hơn, quý phái hơn để chiếm được lòng tin, lòng quý mến của người khác. Có loại người giả hình dạy một đàng, làm một nẻo, bắt người khác làm những điều mình chẳng bao giờ làm, mạt sát người khác về những tội mình không tránh khỏi. Có loại người giả hình rất tử tế với người ngoài, còn sống với người trong nhà thì không ai chịu nổi. Nói chung mọi thứ giả hình đều không thật. Ðức Giêsu cảnh giác chúng ta về thứ giả hình đạo đức: “Anh em hãy coi chừng...”, kẻo lại giống một số kinh sư.

Ðức Giêsu cố ý ngồi đối diện với thùng tiền ở Ðền Thờ. Ngài tò mò muốn xem đám đông bỏ tiền ra sao. Những người giàu bỏ nhiều hơn cả. Nhưng Ngài lại xúc động khi thấy một bà goá nghèo rón rén bỏ vào thùng hai đồng xu nhỏ. Ngài quả quyết trước mặt các môn đệ: “Bà goá này đã bỏ nhiều tiền hơn người khác, vì mọi người lấy từ cái dư thừa mà bỏ vào, còn bà, bà lấy từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào tất cả những gì bà có, tất cả của nuôi thân”.

Các môn đệ ngỡ ngàng trước cách đánh giá của Ðức Giêsu, cách nhìn con người dựa trên tấm lòng của họ. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Ðức Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Lối đánh giá của Ðức Giêsu đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Có khi chúng ta ca ngợi một người chỉ vì người ấy đã có những đóng góp lớn lao, đã đem lại những kết quả cụ thể, rõ ràng. Có khi chúng ta chê một người vì người đó kém cỏi, thiếu năng lực. Tiếng khen chê của ta thường dựa trên hiệu quả bề ngoài, và ít đụng đến phần nội tâm sâu thẳm. Lối đánh giá của Ðức Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình. Tôi xao xuyến khi bị chê, tự mãn khi được khen. Tôi quá trọng dư luận đến nỗi trở nên nô lệ cho dư luận. Thật ra tôi cần đánh giá mình dựa trên cái nhìn của Chúa. Chúa thấy tôi thế nào thì tôi là thế ấy.

Ðiều quan trọng khiến tôi bận tâm đó là tôi có dâng tất cả bản thân cho Chúa không, chẳng giữ lại gì cho mình, dù chỉ một xu nhỏ. Cần rất nhiều liều lĩnh khi bỏ nốt đồng xu cuối cùng để thực sự trở nên người tín thác trọn vẹn vào Chúa.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những
mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự
thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt
nạ.
Có những hành vi đạo đức bên
ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên
trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm
hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm
mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa
vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi
thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu
khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong
bình an. ª

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


CÁC TIN KHÁC

SUY NIỆM CN LỄ THÁNH GIA
SUY NIỆM CN LỄ THÁNH GIA

Lời chứng của ông Gio-an
(02.01.2015 – Thứ Bảy – mùa Giáng sinh)
Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình. Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm. Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân. Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11). Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia.là Đức Giêsu, một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm. Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi : “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại. Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ, thì người Do-thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan. Họ muốn biết ông Gioan là ai.

SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 25-12-2015
SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH 25-12-2015

Tin Mừng trọng đại

(24.12.2015 – Lễ Chúa Giáng Sinh – Lễ đêm)
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ, làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2). Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống, chấp nhận thân phận hữu hạn của con người. Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn. Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ. Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng. Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét. Ngài cũng không được chào đời nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem. Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7). Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời. Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật. Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm? Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa. Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không? Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không? Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ. Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ. Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa. Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya, ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại. Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!

SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - 20-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG - 20-12-2015

Thiên Chúa viếng thăm
(Ngày 24.12.2015 – Trước Lễ Giáng Sinh)
Sau hơn chín tháng bị câm, khi Gioan đã sinh được tám ngày, lời nói đầu tiên của ông Dacaria là một bài ca chúc tụng. Ông chúc tụng Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel vì Ngài đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài (c. 68). Mọi việc Thiên Chúa sắp làm cho đoàn dân riêng được gói gọn trong một động từ rất đơn sơ: viếng thăm.
Thiên Chúa đi thăm dân Ngài để cứu độ và ban ơn tha tội (c. 77). Gioan, con của ông, được hân hạnh là người đi trước mở đường (c. 76). Dacaria vui vì niềm vui của cả dân tộc và của riêng gia đình ông. Thiên Chúa đi thăm dân qua Đức Giêsu, Người Con Một. Đó là Vị Cứu Tinh quyền thế đến từ dòng dõi Đavít (c. 69). Do lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, Đấng Mêsia đã được sai đến như Vừng Đông tự chốn cao vời (c. 78). Vừng sáng này đến thăm những ai ngồi trong bóng tối sự chết và đưa dắt dân Ngài vào con đường bình an (c. 79). Bình an là được giải thoát khỏi tay kẻ thù (c. 71), khỏi tội lỗi (c. 77), là được tự do phụng thờ Thiên Chúa trên quê hương (cc. 74-75).

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG 13-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG 13-12-2015

Chuẩn bị sẵn sàng

(19.12.2015 – Thứ Bảy Trước Lễ Giáng sinh)
Ở nước Do Thái, vợ chồng lấy nhau mà không con nối dõi là một điều bất hạnh, thậm chí là một hình phạt của Thiên Chúa. Chúng ta không rõ hai ông bà Dacaria và Êlisabét đã sống với nhau bao lâu mà không có con. Chỉ biết bây giờ ông đã cao niên rồi, và bà đã quá tuổi sinh sản (c. 7). Hai vợ chồng già đã kiên nhẫn cầu xin và chờ đợi trong nhiều năm. Có vẻ Đức Chúa ngoảnh mặt đi, không nghe lời họ, dù cả hai đều thuộc dòng tộc tư tế Aharon và rất mực đạo đức (cc. 5-6). Bây giờ họ có còn hy vọng nữa không?

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG 06-12-2015
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG 06-12-2015

ĐAU KHỔ VÌ SỨ VỤ
(12.12.2015 – Thứ Bảy Tuần 2 Mùa Vọng)

Nếu có phải liên lụy đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa và sứ mạng được trao. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.

Top